Người được sinh ra và lớn lên tại xứ A-bên Mê-hô-la, thung lũng Giô-đanh,
thuộc chi tộc Y-ca-sa. Cụ Sa-phát đặt tên cho người là Ê-li-sê, có nghĩa “Đức
Giê-hô-va sự cứu rỗi của người”.
A-bên Mê-hô-la là xứ trù phú trong chi phái Y-ca-sa, dân cư chuyên sống
nghề làm ruộng lúa mì và chăn nuôi. Gia đình cụ Sa-phát sống rất kỉnh kiền và
thuộc hàng phú nông, giàu có nhất nhì trong xứ đó. Ê-li-sê được sinh ra ở Bắc
quốc, nơi không có đền thánh Đức Chúa Trời. Sinh hoạt tín ngưỡng của dân chúng
bị đảo lộn vì các cuộc hội đồng cưỡng bách thường niên thờ lạy bò con vàng ở Đan
và Bêtên. Gia đình cụ gặp nhiều khó khăn khi trốn tránh các cuộc nhóm họp tà đạo
ấy, nhất là dưới thời cai trị hung ác khét tiếng của hoàng đế A-háp và hoàng hậu
Giê-sa-bên.
Là một thanh niên tháo vát, một nông phu giỏi, Ê-li-sê cũng có chút ít
vốn liếng văn hóa. Người từng theo chân thân sinh thăm viếng thân nhân ở các thành
phố trong chi phái mình. Người vẫn còn nhớ rõ mới năm nào mình cùng cha dự cuộc
hội họp toàn dân cùng tiên tri Ê-li trên núi Cạt-mên. Lửa Đức Giê-hô-va giáng
xuống, các tiên tri Ba-anh bị giết chết, và mưa như trút nước đổ xuống chấm dứt
cơn hạn hán ba năm rưỡi. Dân chúng được mùa, gia đình người được sung túc.
Rồi một hôm gia trang cụ Sa-phát nhộn nhịp và các bạn thợ cày của Ê-li-sê
hội họp để cày ruộng vần đổi công với người. Người cùng bạn bè và đầy tớ trong
nhà, tổng số thợ cày là 12 người. Họ ra đồng, chăm chú cày thửa ruộng mênh mông
của người. Đang khi đó, trên con đường mòn cạnh thửa ruộng dẫn vào thôn xóm, có
một cụ già người quắc thước, mặc áo tơi chống gậy đi tới. Không ai màng nhìn kỹ
cụ, nhưng khi đến gần Ê-li-sê, cụ cởi chiếc áo choàng của mình và ném trên mình
Ê-li-sê. Đang cầm đôi bò thứ mười hai, Ê-li-sê kinh ngạc nhìn kỹ lại, té ra là
vị tiên tri dũng cảm trên núi Cạt-mên mà mọi người hầu như quen mặt.
Người rước cụ về nhà, ngã bò làm thịt dọn tiệc cùng tỏ lời từ giã mẹ
cha, bạn bè, tôi tớ, lên đường làm kẻ hầu việc cho tiên tri. Ôi phút chia li cảm
động làm sau, khi người vừa từ biệt thân nhân và từ bỏ điền sản của cải, để
theo chân một người không của cải và sống cuộc đời lữ khách!
Người theo cụ Ê-li hầu hạ người, làm kẻ đổ nước trên tay Ê-li, rửa chân
người. Người nhẫn nhục học theo gương ăn uống đạm bạc của thầy suốt mấy năm cho
đến ngày vị thầy khả kính được Đức Giê-hô-va cất đi. Năm ấy là năm vua A-cha-xia,
con A-háp băng hà. Bài học chia ly nầy còn thâm trầm hơn nữa!
Người khởi sự chức vụ vào năm vua Giô-ram đăng quang. Vua thừa hưởng mọi
sự vua cha để lại. Nào quyền bính, giàu sang, cung điện bằng ngà tại Gít-rê-ên
và hoàng cung tại Sa-ma-ri. Suốt 12 năm trị vì, vua Giô-ram và các vua miền
nam, thông gia, thường xuyên đến thăm viếng thỉnh ý người. Có lúc người cũng lưu
trú ở kinh đô Sa-ma-ri, hoặc Đô-than hay núi Cạt-mên. Người thường xuyên gặp các
vua chúa. Trước cảnh giàu sang, quyền quí, xe cộ nghênh ngang, kiệu cáng rộn ràng,
lầu son gác tía, đền ngà.v.v… người chỉ sống cuộc đời thanh bạch. Sinh kế lệ
thuộc nơi Đức Giê-hô-va hằng sống, mà trước mặt Ngài người thường xuyên đứng chầu.
Ê-li-sê không tủi thân, không hổ thẹn khi sống nhờ vào của dâng của dân Chúa, và
lắm lúc chịu túng quẩn. Triều đình không hề biết rằng người xuất thân từ gia đình
phú nông, nên họ chỉ nói với nhau về người là kẻ đổ nước trên tay Ê-li, bằng giọng
nói khinh miệt.
Nhờ chức vụ người, triều đình Giô-ram thịnh đạt. Người từ chối mọi quà
tặng của vua chúa, quan quyền, chịu nghèo ngặt mà làm cho mọi người giàu có. Đó
là lý do người dùng quyền bính Chúa nghiêm khắc trừng phạt Ghê-ha-xi, kẻ tôi tớ
mình, khi anh ta mạo danh người nhận quà tặng của Na-a-man. Người đã vì danh Chúa
ra đi, không nhận gì của người ngoại bang. Trong hành trình chức vụ, người không
đem túi bạc, bị, dép nhưng không thiếu thốn chi cả.
Ê-li-sê không sống cuộc đời định cư trong thế giới, nên mọi tiện nghi
cuộc sống chỗ cư trú đều có tính cách tạm thời. Sau khi Giô-ram qua đời, có sự
thay đổi chính quyền, nhưng cuộc sống người cũng không thay đổi, cũng không giàu
có gì hơn. Người âm thầm phụng sự Đức Chúa Trời cho các vua Giê-hu 28 năm và Giô-a-cha
17 năm. Nhờ người trị vì bằng lời hiện hành của Đức Chúa Trời, ẩn mật xử lý các
quỉ mà các hoàng đế an vị, thánh dân an cư lạc nghiệp.
Suốt gần 60 năm chức vụ ban sự sống, người chỉ sống cuộc đời thanh bạch,
từ chối đến cả lễ vật của quốc vương Sy-ri, là Bên-ha-đát, dùng đến 40 lạc đà
chuyên chở. Rất nhiều thánh dân, quan chức, quan lại, tức các bậc tạm gọi là chăn
dân, chăn bầy lại nông cạn khinh khi Ê-li-sê nghèo hèn, không có ngoại mạo như
bậc vương giả. Họ tôn trọng lời thánh trong môi miệng người, mơ hồ cho người là
bậc quyền bính của Chúa, nhưng tuyệt đối không muốn sống gần gũi người hay mời
người hướng dẫn, chỉ vì cớ Ê-li-sê quá nghèo và có vẻ quá quê mùa!
Trong dân Chúa, phàm ai làm ác thì ghét sự sáng, không đến cùng sự sáng,
e rằng công việc mình bị trách móc chăng. Chỉ có các thánh đồ nghèo, các phụ nữ
kỉnh kiền gần gũi, thông công và bảo trợ người, vì họ được mặc khải rằng người
là thánh nhân của Đức Chúa Trời. Các bậc vua chúa, các người chăn dân giàu sang
quyền quí đó chỉ đến với người khi họ gặp sự bế tắc mà thôi. Ê-li-sê di trú từ
núi Cạt-mên đến Đô-than, Ghinh-ganh, Bê-tên, kinh đô Sa-ma-ri, nhưng dù ở đâu
người cũng không hòa nhập vào nếp sống phong lưu hào nhoáng của các vua. Các
vua phải đến với người, các đồi đời đời đều quì xuống, vì người là bậc quyền bính
thuộc linh của Chúa– và quyền bính phải sống biệt riêng. Rồi mãi đến lúc lâm
chung, Ê-li-sê vẫn xứng đáng là tôi tớ của vị Thầy Ê-li lớn hơn, Đấng “không chỗ
gối đầu”.
Minh Khải.
******