Xứ
Palestine (từ Hy văn Syria Palaistine.
Phi-li-tin Sy-ri) nguyên được gọi là xứ Ca-na-an (có thể do một từ ngữ Hurrian
có nghĩa là xứ của màu tía) nằm tại phía cực Tây Nam
của “Vùng đất phì nhiêu hình bán nguyệt” nối liền đồng bằng Ơ-phơ-rát, Ti rơ
với đồng bằng Nile . Lịch sử chính trị xứ này
liên hệ chặt chẽ với địa lý của nó, nhưng lịch sử thuộc linh là một nét đặc thù
vượt trên điều kiện địa lý siêu tuyệt của nó. Vốn là giãi đất nối liền hai khối
lục địa lớn của Đông Bán Cầu là lục địa Eurasia và Phi Châu, xứ Palestine nằm trên các
giao lộ của nền văn minh cổ đại. Con đường lớn từ Ai Cập đi Sy-ri và xa hơn nữa
chạy ngang xứ Palestine ,
là một trong những con đường quan trọng nhất của thế giới cổ đại cả về mặt
thương mại lẫn chiến lược, và tầm quan trọng của nó vẫn chưa bị mất đi. Trong
thời bình, các nhà cầm quyền xứ Palestine
được lợi lộc nhờ những chuyến đi lại giao thương qua lãnh thổ của họ. Chẳng hạn
như Sa-lô-môn từng đứng trung gian buôn bán ngựa và xe ngựa giữa Ai Cập và
Si-li-si (I vua 10:28 và tt) mà thâu
được nhiều lợi tức. Trong thời chiến, xứ Palestine
trở thành bãi chiến trường cho các đế quốc miền Bắc và miền Nam chạm trán
nhau, và là phần thưởng chiến lược cho cường quốc nào chiếm và giữ được nó.
Con
đường lớn đi từ Ai Cập lên phía Bắc qua vùng đất thấp phía Tây xứ Palestine , cho đến khi
không còn đi lên được nữa vì bị dãy núi nằm tại trung tâm xứ ấy chạy từ núi
Cạt-mên ra Địa Trung Hải cản lại. Hàng rào cản này khiến con đường quay sang
hướng Đông, qua đèo Mê-ghi-đô (là bãi chiến trường cho những trận đánh có tính
cách quyết định qua hơn ba thiên niên kỷ rưỡi và mãi đến tận ngày nay) để vào
đồng bằng Git-rê-ên (hay Ếch-tra-lôn theo tên gọi của người Hy Lạp). Nó chạy
qua sông Giô-đanh ở phía Bắc biển Ga-li-lê rồi tiếp tục đi về hướng Đông Bắc
cho đến Đa-mách.
Nằm
giữa Địa Trung Hải và sa mạc Sy-ri, vùng lãnh thổ Palestine
của Kinh Thánh gồm bốn vòng đai nằm hơi song song nhau chạy từ Bắc xuống Nam .
Phía Tây là đồng bằng Sa-rôn, dọc duyên hải; rồi tối một cao nguyên bằng phẳng
những ngọn đồi thấp được Kinh Thánh gọi là Sê-pha-la. Đó là vùng đất bằng phẳng
từ núi Cạt-mên chạy xuống biển. Về phía Đông, nó từ từ đi xuống đến khi gặp
vòng đai thứ ba, là đồng bằng Giô-đanh, nằm tại Kẻ Nứt Lớn. Nó tiếp tục đi
xuống phía Nam qua Biển Chết và sa mạc A-ra-ba (vùng đất thấp nằm giữa Biển
Chết và vịnh A-ra-ba) xuống tận Biển Đỏ để vào Phi Châu. Đồng bằng sông
Giô-đanh nằm thấp hơn mặt biển Ga-li-lê 255 mét (685 bộ) và thấp hơn mặt Biển
Chết, (vùng mặt nước nằm thấp nhất trên hoàn cầu) 383 mét (1275 bộ). Như vậy, hệ thảo mộc vùng đồng
bằng Giô-đanh hầu như thuộc vùng nhiệt đới xanh tươi rạng rỡ; vùng rừng rậm dọc
hai bên sông là vùng “rừng già Giô-đanh” nơi mà vào thời Cựu ước, đã có “tiếng
gầm của sư tử”. Biển Chết mà sông Giô-đanh chảy vào, nhiều thế kỷ trước, vốn
kéo dài xuống miền Nam .
Nằm dưới phần ngập nước của nó là những đống đổ nát của Sô-đôm và các thành phố
khác của đồng bằng Giô-đanh (Sáng thế
19:25), trước kia vốn thuộc về một vùng đất đẹp đẽ, phì nhiêu, cho đến khi
bị những cơn địa chấn được ghi lại trong Sáng
thế 19, làm sụp đổ tan tành. Giữa sông Giô-đanh và vùng sa mạc phía Đông là
vùng cao nguyên bên kia sông Giô-đanh, trước khi bị dân Y-sơ-ra-ên chinh phục,
vốn là vương quốc của người Ba-san, Hết-bôn, Am-môn, Mô-áp và Ê-dôm (hai dân
tộc đầu bị người Y-sơ-ra-ên lật đổ khi họ tiến vào xứ Ca-na-an).
Vương
quốc Y-sơ-ra-ên bị chia đôi sau khi Sa-lô-môn băng hà, vương quốc miền Bắc nằm
choán ngang con đường lớn đi từ Bắc xuống Nam, còn vương quốc miền Nam là xứ
Giu-đê với kinh đô Giê-ru-sa-lem, nằm xa con đường mòn trong vùng núi Giu-đê về
phía Nam của vùng cao nguyên trung tâm xứ Palestine. Do đó, vương quốc miền Bắc
phải đụng chạm nhiều với các thế lực ngoại bang hơn là vương quốc miền Nam (tuy
vương quốc miền Nam vẫn không hoàn toàn thoát khỏi được), nên vẫn thường phải
nhập cuộc trong nhiều lần tranh chấp, trước hết là với lân quốc Si-ri phía Bắc
và sau đó với cường A-sy-ri ở phía bên kia Si-ri. Các lý do địa lý được xem là
nguyên nhân chính của sự sụp đổ của vương quốc miền Bắc hơn một thế kỷ trước
khi vương quốc Giu-đa bị tiêu diệt. Các nhà tiên tri đã nhấn mạnh rằng sự an
toàn của vương quốc miền Nam vốn nhờ vào việc tránh khỏi những cuộc đụng chạm
rắc rối với ngoại quốc – tuy không nói ra là do điều kiện địa lý như trên đã
nói – nhưng cũng rất phù hợp với tình hình địa lý khác với vương quốc miền Bắc.
Bờ
biển xứ Palestine
không có hải cảng lớn. Phù sa của sông Nile
tạo thành một giãi đât dài dọc duyên hải. Sê-sa-rê, hải cảng được Hê-rốt Đại Đế
xây dựng, chủ yếu là một hải cảng nhân tạo nên không tồn tại được lâu. Cả đến
Ty-rơ cũng mất đi tính cách quan trọng là một hải cảng lớn ở phía Nam , tuy tàu bè
vẫn còn có thể đến ẩn náu ở phía bắc của nó. Hải cảng hiện đại là Haifa nằm trong vùng vịnh
được núi Cạt-mên tạo thành, vì nó chạy thẳng ra biển. Như thế, xứ Palestine rất khó phát
triển giao thông bằng đường biển. Hải cảng E-xi-ôn Ghê-be nằm tại đầu vịnh
A-ra-ba chỉ có thể được người Y-sơ-ra-ên và Giu-đa sử dụng khi người Ê-đôm liên
minh với họ hay bị họ cai trị như dưới các thời trị vì của Sa-lô-môn và
Giô-sa-phát.
Con
sông đáng kể duy nhất của xứ Palestine
là Giô-đanh, nằm sâu thấp hơn mặt biển nên không thể sử dụng cho việc dẫn thủy
nhập điện. Do đó, sự phì nhiêu của xứ này lệ thuộc vào lượng mưa đều đặn, nếu
không được như thế, như vào đời Ê-li, hậu quả sẽ rất đáng buồn. Mùa mưa kéo dài
từ tháng Mười Một đến tháng Ba hay tháng Tư dương lịch; đặc biệt có mưa nhiều là vào đầu và giữa giai
đoạn ấy (do đó mà có các danh từ “đầu” mùa và “cuối” mùa). Khắp nơi trong xứ,
người ta xây nhiều hồ và đào nhiều ao để nhận và giữ nước mưa (Giê-rê-mi 2:13). Những cơn mưa đầu mùa
khiến cho đất mềm, sẵn sàng để cày lên, còn mưa cuối mùa thì tưới hột giống.
Đặc
tính địa lý của xứ ấy tạo nên tôn giáo của các dân tộc cư ngụ tại đó trước dân
Y-sơ-ra-ên. Hai thần Ba-anh và Ách-ta-nốt mà người Ca-na-an thờ lạy, vốn là các
thần của thảo mộc, thần sinh sản (cho hoa lợi, con người và súc vật thêm lên),
cho nên suốt thời gian dài, dân Y-sơ-ra-ên cũng gặp nguy cơ sa vào đó. Tuy
nhiên, thỉnh thoảng trong xứ cũng nhận được những luồng gió mát từ sa mạc thổi
vào, nên tôn giáo của dân Ca-na-an đã kết hợp hai loại thần thánh, thần Ba-anh
của nông dân, và các thần của những người sống trong sa mạc.
Các
giống ngũ cốc chính yếu được trồng là lúa mạch và lúa mì, được thâu gặt giữa
tháng tư và tháng sáu dương lịch. Nho và ô-liu cũng được trồng trên các triền
đồi núi, và được thâu gặt vào cuối mùa hè. Việc trồng trọt trong xứ phần lớn
vốn bị bỏ bê từ nhiều thế kỷ qua, đến thế kỷ này lại được thực hiện hăng say,
và một lần nữa, nó bắt đầu phục hồi khung cảnh đã được mô tả trong Phục Truyền 11:9-12.
BẢN VĂN KINH THÁNH
Trong
số các kết quả của các công trình nghiên cứu văn bản Cựu và Tân Ước của các học
giả thuộc ba thế hệ vừa qua, kết quả quan trọng nhất là niềm tin quyết căn cứ
trên một chứng cứ hiển nhiên không chối cãi được là ngày nay chúng ta đang có
trong tay một quyển Kinh Thánh mà bản chất không khác với nguyên bản. Dĩ nhiên
việc sao chép bằng tay qua nhiều thế kỷ khiến cho các bản sách có khác đi là
điều không tránh được, nhưng không có trường hợp nào giáo lý đã bị sự thay đổi
đó ảnh hưởng. Trong trường hợp Cựu Ước, cách sao chép thận trọng của các thầy
thông giáo người Do Thái đã giữ được tính cách chính xác của bản văn; trong khi
với Tân Ước, chúng ta được giáo sư F.J.A. Hort cho biết, ngoại trừ một số sai
biệt vô nghĩa về văn phạm hay chính tả thì không có đến một phần ngàn của toàn
bộ Kinh Thánh bị ảnh hưởng do sự sao chép khác nhau.
+ Cựu ước:
Trong
khi rất có thể sách Sáng Thế Ký chứa
đựng các yếu tố xưa cũ của thời nguyên thủy, được viết trên các bảng đất nung
bằng tiết hình tự (chữ hình nêm) của người Ba-by-lôn, ngôn ngữ của Cựu Ước là
văn tự Hi Bá Lai cổ, là văn nói mà dân Do Thái đã sử dụng từ giữa thế kỉ thứ
mười bốn TC hoặc sớm hơn, cho đến thời kỳ họ bị lưu đày sang Ba-by-lôn vào đầu
thế kỷ thứ mười sáu TC. Nhưng ngoại lệ duy nhất là một câu trong sách Giê-rê-mi và vài phần đoạn của sách Đa-ni-ên và E-xơ-ra, được viết bằng chữ A-ram, một ngôn ngữ Semitic cùng họ với
chữ Hi Bá Lai. Sở dĩ được gọi tên như vậy là do tên xứ A-ram hay Sy-ri, nằm ở
ranh giới phía Đông Bắc xứ Palestine ,
mà người Do Thái từng tiếp xúc trong nhiều thời kỳ khác nhau. Có lẽ các vị tộc
trưởng đã dùng một trong số các thổ ngữ đó (Sáng
thế 31:47; Phục Truyền 26:5). Từ
thời kỳ lưu đày trở về sau, nó thay thế ngôn ngữ Hi Bá Lai trong địa vị tiếng
nói của xứ Palestine, rồi trở thành ngôn ngữ phổ thông (lingua franca) của vùng Trung Đông. Về sau đó lần lần được Hi văn
thay thế. Tiếng A-ram là ngôn ngữ mà Chúa chúng ta và các môn đệ Ngài thường
nói.
+ Các Thủ Bản
(Manuscript: Bản Chép Tay ) Cựu Ước Bằng Tiếng
Hi Bá Lai.
Đã
không có một thủ bản nào tồn tại đến ngay nay được định niên đại cổ hơn thế kỷ
thứ chín SC. Có một thủ bản thế kỷ thứ chín của Ngũ Kinh Môi-se (Pentateuch) tại Viện Bảo tàng Anh Quốc,
một trong các sách tiên tri tại Leningrad được ghi niên đại là năm 916, và một
số nhiều hơn nữa ở Nga. Tại Cambridge, có một thủ bản Hi Bá Lai ghi năm 856,
nhưng các học giả cho rằng niên đại đó không đúng. Tất cả các thủ bản Cựu Ước
bằng tiếng Hi Bá Lai còn tồn tại được gọi là bản Massoretic. Các Massoretes là
những Ra-bi và học giả người Do Thái chuyên duyệt lại Cựu Ước bằng tiếng Hi Bá Lai từ thế kỷ
thứ bảy trở đi. Họ làm cho các văn bản hoàn toàn giống nhau, bảo đảm sự thống
nhất đó bằng nhiều qui luật tỉ mỉ nhằm hướng dẫn những người sao chép sách. Sau
khi một quyển sách được sao chép xong, phải đếm số chữ trong bản sao, và nếu có
sai biệt thì bản sao bị loại bỏ. Các Massoretes thêm các ký hiệu chỉ nguyên âm
vào bản văn gồm toàn các phụ âm trở thành dễ hiểu hơn, nhưng vì thế đôi khi lại
đưa vào những nghĩa sai. Thái độ cực kỳ thận trọng của các Massoretes đối với
bản văn là lý do khiến chúng ta chỉ còn các thủ bản có niên đại không cổ lắm,
vì khi đã được sao chép kỹ lưỡng như vậy, người ta không cần phải bảo tồn các
bản sao xưa hơn, khi đã được bảo đảm rằng chúng với các bản sao hoàn toàn giống
nhau. Việc ấn hành và phát hành các bản Massoretes được căn cứ trên kinh Tamud, là sách giải nghĩa và chú thích
Cựu Ước, được định niên đại vào khoảng 270-500SC. Như thế bảng Massoretic vốn
là bản kinh thánh Cựu Ước chính thức của người Do Thái, đã được lưu truyền từ
bản tiếng Hi Bá Lai của thế kỷ thứ hai SC, đó là bản Kinh Thánh được viết và sử
dụng vào thời của Chúa chúng ta. Phía sau kinh Talmud có bản Targums là
bản dịch theo cách diễn ý cổ bản Hi Bá Lai sang chữ A-ram và thuộc về thế kỷ
thứ ba, thứ tư SC. Bản văn dùng để diễn ý này là bản Kinh Thánh thông dụng tại
Palestine vào thế kỷ thứ nhất TC. Nó có hơi khác với bản Massoretic là bản
chúng ta căn cứ vào đó để dịch các bản Kinh Thánh hiện đại.
+ Các Bản
Dịch Cựu Ước.
Một
trong những bản Cựu Ước dịch từ nguyên bản quan trọng nhất là sách Ngũ Kinh Sa-ma-ri
có lẽ dịch từ thế kỷ thứ tám TC trong các điều kiện được mô tả trong II Vua 17:24-28. Các bản sao còn lại
được định niên đại từ các thế kỷ thứ mười đến mười ba SC, hoặc sớm hơn nữa. Có
một số ít cũng được sao chép lại từ thủ bản hiện còn tại Nablus ,
Palestine mà có
người cho là vốn có từ các thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Cơ Đốc giáo. Bản này
khác với bản Massoretic khoảng sáu ngàn chỗ, phần lớn những điểm dị biệt là về
văn phạm, chẳng có gì quan trọng. Trong số những điểm còn lại, có một số là do sự
cố ý tạo ra (chẳng hạn như Ghê-ri-xim thay vì Ê-banh trong Phục Truyền 27:4), một số là những câu giải thích hay nhắc lại,
trong khi một số khác cho thấy thật sự có khác nhau về cách đọc. Ở một số chỗ
bản Sa-ma-ri phù hợp với bản Bảy Mươi (xem dưới đây), và có độ ba mươi lăm chỗ
như thế được xem là đúng hơn những chỗ trong bản Massoretes.
Bản
dịch Cựu Ước ra Hi văn (Greek) được biết dưới tên Bộ Bảy Mươi (Septuagint) vô
cùng quan trọng. Việc phiên dịch bộ sách ấy được bắt đầu từ Alexandria vào thế
kỷ thứ ba TC, và trở thành quyển Kinh Thánh được công nhận của những người Do
Thái nói tiếng Hi Lạp. Tầm quan trọng của nó trong việc dùng để rà soát lại bản
Massoretic thật dễ hiểu. Nó được Hội Thánh Đấng Christ trọng dụng như một bản
dịch Cựu Ước được công nhận. Vì thế bản dịch này bị người Do Thái chối bỏ, và
một bản dịch mới từ một bản Hi Bá Lai thông dụng ra Hi văn đã ra đời, có đặc
điểm là dịch sát nguyên văn, do Ra-bi Onkelos thực hiện khoảng năm 150 SC.
Trong thế kỷ thứ hai, còn có một bản dịch khác nữa được thực hiện bởi
Theodotion, mà người ta cho là một Cơ Đốc nhân người Do Thái, cũng từ bản Hi Bá
Lai phổ thông, nhưng dịch phóng khoáng hơn. Khoảng năm 200, một bản dịch thứ tư
ra Hi văn được Symmachus thực hiện. Cả bốn bản dịch trên đây đều được sắp xếp
thành bốn cột trụ cùng với bản Hi Bá Lai và bản chuyển âm Hi văn của Origen
trong thế kỷ thứ ba, công trình này được gọi là bản Hexapla. Bản sao bản
Septuagint nguyên thủy đã được chính Origen xuất bản. Bản dịch tại Alexandria tất nhiên tiêu
biểu cho bản Hi Bá Lai cổ hơn bản Massoretic và có nhiều chỗ khác với bản ấy.
Khác ít nhất là phần Ngũ Kinh, và nhiều là trong các sách Sa-mu-ên và Các Vua. Thứ tự các đoạn Giê-rê-mi có khác hơn và khoảng một phần sáu của sách Gióp bị bỏ
sót. Ý kiến của đa số các học giả là ở những chỗ bản Bảy Mươi khác với Bản Hi
Bá Lai thì những chỗ khác đó của bản Bảy Mươi đôi khi đúng, bởi vì đây đó được
bản Sa-ma-ri hậu thuẫn, nhưng nhìn chung thì bản Massoretic (bản Hi Bá Lai)
đáng tin cậy hơn.
Hầu
Như toàn bộ Cựu Ước Hi Văn đều có cả trong thủ bản Vatican (Codex Vaticanus)
trong thư viện Vatican ở Rô-ma và thủ bản Alexandria (Codex Alexandrinus) tại
Viện Bảo tàng Anh Quốc và một phần lớn thì có trong thủ bản Si-na-i (Codex
Sinaiticus), được Tischendort phát giác năm 1844, hiện cũng được giữ tại Viện
Bảo tàng Anh Quốc. Các thủ bản quan trọng này được định niên đại từ thế kỷ thứ
tư hoặc thứ năm. Thủ bản Ephraemi tại Paris
còn gồm có cả một mảnh bản sao rất cổ. Thêm vào các bản chép tay quan trọng kế
trên còn có khoảng mười tám cổ bản chép bằng chữ in hoa ( uncial manuscripts)
vào khoảng thế kỉ thứ năm đến thứ chín, và trên ba trăm cổ bản chép theo kiểu
chữ viết tay (cursives). Thiết tưởng cần giải thích rằng “ codex” là thuật ngữ
chỉ một quyển sách có hình thù như quyển sách chúng ta dùng ngày nay, khác với
loại sách cuộn là hình thức quyển sách đời xưa.
Nhiều
bản dịch Cựu Ước khác cũng đã được thực hiện trong các thế kỉ đầu tiên của kỉ
nguyên Cơ Đốc giáo. Bản Syriac được biết dưới tên Peshitta, được thực hiện vào
thế kỉ thứ hai hoặc thứ ba. Nó được lấy từ bản Hi Bá Lai nhưng được nhuận chánh
theo bản Bảy Mươi, do đó không đáng tin cậy trong các vấn đề có sai biệt. Hai
bản dịch ra tiếng Ai Cập Cổ (Coptic) là Bohairic và Sahidic xuất hiện vào thế
kỷ thứ ba và có lẽ được trích từ bản Bảy
Mươi. Cũng có bản trích dịch ra các thứ tiếng Ê- thi-ô- bi, Gô- tích, At- mê-
ni, A-rập, Georgian và Slavonic nhưng không có bản nào có giá trị cao có thể sử
dụng nhằm mục đích phê bình bản văn. Bản dịch được biết là bản La- tinh cổ có
lẽ được thực hiện tại Bắc Phi vào thế kỉ thứ hai SC. Bộ ấy được trích từ bản
Bảy Mươi và đã tồn tại không đầy đủ giá trị của nó về mặt phê bình nguyên văn,
phần Cựu Ước vốn kém hơn phần Tân Ước. Cuối cùng là bản dịch La- tinh được biết
là bản Valgate, quyển Kinh Thánh của thời trung cổ và là bản dịch chính thức
của giáo hội Công Giáo La Mã ngày nay. Phần lớn bộ ấy là công trình của Jerome
và một phần dịch trực tiếp từ bản Hi Bá Lai, một phần là bản nhuận chánh bộ
Kinh Thánh chữ La-tinh có tham khảo bản Hi văn và phần lớn sách Ngoại kinh (Apocrypha) là từ bản La- tinh cổ chưa
nhuận chánh.
+ Tân Ước
Đến
nay chúng ta còn có trên bốn ngàn cổ bản Tân Ước hoặc những phần của Tân Ước.
Diễn trình lưu truyền Tân Ước tự chia làm ba giai đoạn, giai đoạn giấy vỏ cây (
từ thế kỷ đầu đến thế kỷ thứ tư), giai đoạn chữ in hoa ( từ thế kỷ thứ tư đến
thế kỷ thứ chín) và giai đoạn của lối chữ viết tháu (từ thế kỷ thứ chín đến thế
kỷ thứ mười lăm). Cần biết rằng bằng chứng về bản Tân Ước dồi dào hơn bất cứ
một văn phẩm nào của thế giới cổ đại lưu truyền lại cho chúng ta.
Vào đầu kỷ nguyên Cơ Đốc Giáo, vật liệu để viết
thông dụng là vỏ cây sậy papyrus được chế biến cho thích hợp để viết chữ lên
trên. Giống sậy này mọc rất nhiều trên bờ sông Nile .
Nhiều tài liệu viết trên giấy vỏ cây còn lại đến ngày nay, đã được tìm thấy
trong năm mươi năm qua ( kể từ ngày sách này xuất bản năm 1947) tại Ai Cập,
trong đó có nhiều cổ bản Tân Ước. Một trong những khám phá quan trọng nhất là
ba sách vỏ cây, đóng như quyển sách ngày nay, có từ thế kỷ thứ ba và chứa đựng
phần lớn Tân Ước. Chúng được phát giác vào năm 1930 và được ông A. Chester
Beatty mua lại. Toàn bộ Tân Ước hầu như
chưa bao giờ được góp chung trong một quyển sách hay cuộn sách vào giai đoạn
này. Tuy Hội Thánh Đấng Christ ngày càng phát triển và có ảnh hưởng lớn, nhưng
Hội Thánh vẫn là một phong trào thầm lặng bên trong đế quốc La Mã cho đến thế
kỷ thứ tư. Giữ một bộ Kinh Thánh hay một phần Kinh Thánh vốn vô cùng nguy hiểm
trong giai đoạn bách hại.. Cơ Đốc nhân nói chung lại thuộc giai cấp nghèo khổ.
Điều này có nghĩa Kinh Thánh thường được sao chép rất vội vàng do những người
không biết phân biệt các chú thích ghi bên lề với phần thật sự là kinh văn. Ta
có thể dễ dàng tưởng tượng ra những nhầm lẫn do các hoàn cảnh như thế tạo nên.
Điều đáng ghi nhận là thực sự có rất ít những nhầm lẫn như vậy.
+ Giai đoạn
chữ in hoa
Toàn
thể viển ảnh của vấn đề lưu truyền bản văn đã thay đổi khi Cơ Đốc giáo được
chính thức đỡ đầu vào thế kỷ thứ tư. Có hoàng đế đã tự đảm nhiệm lấy trọng
trách tìm kiếm và duy trì bản văn tốt nhất cho nên các bộ sách lớn bằng giấy da
mỏng đóng thành quyển như hình thức quyển sách ngày nay đã ra đời. Lối chữ viết
trong giai đoạn này nói chung được gọi là chữ in hoa (uncial), trong đó phần
lớn được viết theo lối chữ in hoa. Cách viết chữ như vậy thật rõ ràng, và có
thể nói là đẹp nữa. Vào cuối giai đoạn này, vì nhiều lí do khác nhau, cách viết
chữ đó trở nên lỗi thời và được tiếp nối bằng nhiều loại chữ theo lối viết
tháo.
+ Giai đoạn
chữ viết tháo
Một
bản chữ viết tháo là viết theo lối thông thường như viết thư. Một số bản viết
như vậy rất khó đọc. Theo các nhà phê bình bản văn, giá trị của các cổ bản theo
lối viết tháo là ở chỗ số bản viết tháo này có khá nhiều, cho phép người ta đối
chiếu nhiều bản văn với nhau. Các cổ bản viết tháo đã không cung ứng một bản
văn nào chưa được biết trong các giai đoạn trước đó, nhưng thỉnh thoảng người
ta vẫn duy trì một vài bản có những khác biệt quan trọng.
+ Các
loại bản văn
Khi
nghĩ đến các loại bản văn khác nhau dựa trên sự phân loại theo tài liệu của các
học giả, chúng ta phải luôn luôn nhớ đa số những khác biệt đều tương đối không
quan trọng. Năm 1881 Westcott và Hort đã chia bản văn Kinh Thánh ra làm bốn
nhóm khác nhau. Nhóm thứ nhất được gọi là Syrian vì người ta tin rằng bản văn
ấy có nguồn gốc tại An-ti-ốt, tuy vào thời gian gần đây người ta thích tên
Byzantine hơn. Bản này chính yếu là nguyên văn của bộ Codex Alexandrinus (đầu
thế kỷ thứ năm). Đây là bản văn của ấn bản đầu tiên Tân Ước Hi văn mà Erasmus
đã thực hiện tại Basle năm 1516. Đó là ấn bản
thứ ba của một thợ in người thành phố Paris
là Stephanus cho xuất bản năm 1550, căn cứ theo Erasmus, bản Elzevir, xuất bản
năm 1624, không khác mấy so với các bản vừa kể trên. Nó được biết với cái tên
là “ bản văn tiếp nhận được” ( the “ received text”), và những lần ấn hành bộ
Tân Ước Hi văn tiếp theo đó đều dựa trên bản này cho đến khi ấn hành các bản
phê bình hiện đại. Bản này dựa theo bản
của Erasmus, căn cứ vào một số ít cổ bản, lúc đó những thủ bản Kinh Thánh quan
trọng nhất chưa được khám phá. Một loại bản sao nữa được gọi là Trung Dung hay
Alexandrian, gồm hai cổ bản quan trọng là Codex Vaticanus và Codex Sinaiticus.
Westcott và Hort nhấn mạnh đến tính cách đáng tin cậy của bản Alexandrian và nó
được coi là bản gần với nguyên bản tốt nhất còn tồn tại đến ngày nay. Cũng cần
chú ý đến những bản được gọi là Tây Phương ( Western) vì đó là bản dịch tiếng
La- tinh cổ và xuất hiện trong các thủ bản
La-tinh, hoặc những quyển có cả hai bản Hi văn và La-tinh. Ngày nay,
người ta không còn nghỉ chúng vốn có nguồn gốc Tây phương nữa. Tiêu biểu của
nhóm thủ bản này là bộ Codex Bezae, tại Cambridge
gồm các sách Phúc Âm và Công Vụ Các Sứ Đồ. Từ thời của Westcott và Hort, các
học giả có khuynh hướng chia nhỏ thêm ra thành năm loại, thay vì bốn. Đó là :1.
Bản Alexandrian, 2. Bản Tây Phương, 3. Bản Caesarean ( tiêu biểu là sách Tin
Lành Koridethi và bản giấy vỏ cây của Chester Beatty) 4. Bản Antiochian ( tiêu
biểu là bản dịch tiếng Sy-ri cổ), 5. Bản
Byzantine, nhưng cần coi các loại đó ít có tính chất độc lập với nhau hơn trước
kia. Có một số nhóm cổ bản được coi là quan trọng hơn các nhóm khác, và có
những học giả cho là điều chắc chắn hợp lý, ấy là nguyên bản, nếu tìm được phải
phù hợp với ít ra là hai hoặc hơn nữa trong số năm nhóm trên.
+ Các bản
dịch Tân Ước
Bản
dịch sớm nhất là bản Diatessaron của Tatian.Đây là sách dung hòa bốn sách Phúc
Âm được thực hiện vào thế kỷ thứ hai cho các Hội Thánh tại Sy- ri sử dụng, nhưng nguyên bản là Hi văn
hay chữ Sy-ri thì không được rõ. Ngày nay sách này tồn tại trong một bản dịch
ra tiếng A- rập, và một thành phần trong Hi văn vừa mới được khám phá. Sách
được căn cứ vào bản văn Tây Phương, có lẽ đã được thực hiện tại Rô-ma. Bản dịch
cổ các sách Phúc Âm tiếng Sy-ri có thể có vào khoảng năm 200. Cổ bản làm nền
tảng có lẽ thuộc nhóm Trung Dung, tuy bộ sách cho thấy có vài chỗ theo lối Tây
Phương, có lẽ do bản Diatessaron mà ra. Có người cho rằng nó đại diện cho một
văn bản loại dộc lập. Bản dịch chính thức của các Hội Thánh Sy-ri từ thế kỷ thứ
năm trở về trước, được biết là bản Peshitta. Bản dịch bộ này giống với nhóm
được biết là Syrian hơn bất kì nhóm nào khác. Có ít nhất năm bản dịch ra chữ
Ai-cập tiêu biểu cho các thổ ngữ khác nhau của cổ ngử Ai Cập (Coptic). Hai bản
chính là bản Bohairic, là thổ ngữ vùng
hạ lưu Ai Cập, và bản Sahidic, cho thấy một số điểm giống với nhóm Tây Phương.
Ba bản dịch còn lại dường như được căn cứ theo bản Sahidic. Các bản dịch cổ
khác là bản chữ Armenian, thế kỷ thứ năm. Bản này được pha lẫn bản Georgian, là bản được gọi là Caesarean: bản Gô- tích, thế kỷ thứ tư, căn
cứ trên một bản văn thuộc loại Syrian, và bản chữ Ê-thi-ô-bi, thế kỷ thứ sáu
hoặc thứ bảy. Ở Tây Phương, chúng ta có các bản dịch La-tinh cổ, các bản sớm
nhất được thực hiện để dùng cho các Hội Thánh Bắc Phi. Có nhiều chỗ khác nhau
giữa các bản này với các bản được sử dụng tại Ý và các nơi khác. Các bản chữ
La-tinh cổ có từ thế kỷ thứ tư và cần phân biệt với bản dịch quan trọng của
Jerome, là bản dịch chính thức hiện hành của Giáo hội Công Giáo La Mã, và được
biết với tên bản Vulgate. Về mặt lưu truyền các ban Kinh Thánh thì bản Vulgate
không có gì quan trọng lắm. Bản Vulgate của Jerome được coi là có từ thế kỷ thứ
tư hoặc thứ năm và dường như đã được sưu tập từ các cổ bản Hy văn thuộc loại
Trung Dung, tuy có nhiều bản giống với bản Tây Phương do ảnh hưởng của văn
La-tinh cổ.
+ Các bản
dịch Anh Ngữ
Một
số các bản dịch Thi Thiên và sách Phúc Âm đã có thời Anglo-Saxon. Cuộc chinh
phục của dân Norman kết thúc việc dịch Kinh
Thánh ra các tiếng bản xứ trong suốt ba trăm năm do ảnh hưởng của các giáo sĩ
từ lục địa và việc Pháp văn trở thành ngôn ngữ của các giai cấp thượng lưu và
chuyên nghiệp. Đến thế kỷ thứ mười bốn, việc phiên dịch được tái tục và có
nhiều bản dịch ra Anh văn của thời Trung cổ: Thi Thiên, Khải Thị, Các Thư Tín
của Phao-lô, Công Vụ Các Sứ Đồ và Các Thư Tín Tổng Quát, trước khi có các bản
dịch của Wycliffe. Có hai bản dịch thuộc loại này, nhưng không bản nào là do
công trình của cá nhân Wycliffe đích thân thực hiện cả. Trong hai bản, thì bản
sau dần dần thay thế bản trước, và chắc hẳn đã được sử dụng rộng rãi trong xứ
cho đến khi có cuộc cải chánh. Đến thế kỷ thứ mười bảy, có các bản dịch
của Tyndale và Coverdale, và nhiều bản
dịch khác dựa vào các bản dịch này, trong số đó, bản thông dụng nhất là bản Geneva , được xuất bản năm
1560. Tuyệt đỉnh của các bản dịch này là bản Authorized version vĩ đại năm
1611, một tuyệt phẩm về văn phong và văn tài tự thể hiện trong đời sống và
trong văn chương của dân tộc Anh. Bản Revised Version năm 1881-1884, tuy dựa
trên nhiều cổ bản có giá trị, đã không thành công trong việc thay thế bản
Authorized Version ( tức bản King James), vốn được công chúng yêu thích hơn.
Nhiều bản dịch mới khác nhau cũng tiếp tục ra đời nhằm phục vụ cho nhu cầu
chung./.
(Sưu
Tầm)