HAI PHƯƠNG DIỆN CÔNG TÁC CỦA THÁNH LINH
Thánh kinh khải
thị cách minh bạch cho chúng ta rằng có hai phương diện công tác của Thánh
Linh: phương diện bề trong cho sự sống và phương diện bề ngoài cho quyền năng.
Cái bên ngoài không phải là chuẩn đích; cái bề ngoài là cho cái bề trong.
Phương diện bên ngoài được tìm thấy trong Cựu ước, nhưng phải cho đến thời Tân
ước, sau sự phục sinh của Christ, chuẩn đích của mục đích trường cửu của Đức
Chúa Trời mới được thành tựu qua phương diện bề trong.
Phương diện bề
trong của công tác Thánh Linh được thấy cách rất minh bạch trong phúc âm Giăng
chương 7 và 20. Trong hai chương này, Đức Thánh Linh được so sánh như nước uống
(7:37-39) và hơi thở (20:22), tức những điều thiết yếu cho sự sống. Chúng ta
phải uống để sống, và hơn thế nữa, chúng ta phải hô hấp để sống! Chúng ta có
thể sống 3 ngày mà không uống, nhưng chúng ta không thể sống trong 15’ nếu
không có hô hấp! Tại sao Thánh Linh được so sánh như nước uống và hơi thở cho
sự sống trong phúc âm của Giăng. Vì cớ phúc âm Giăng là phúc âm của sự sống. Nó
tỏ thế nào Christ đã đến để làm sự sống của chúng ta (10:10) và sự cung cấp sự
sống của chúng ta: Ngài đã đến để làm Bánh của sự sống (6:35, 37) và Nước sự
sống (4:14).
Chỉ có một đường
lối duy nhất để cho Chúa làm sự sống chúng ta: đó là trong Linh. Nếu Ngài đã
không là Linh và ở trong Linh, Ngài đã không bao giờ có thể ngự vào chúng ta để
làm sự sống và sự cung cấp sự sống được. Đây là điều Chúa dạy chúng ta trong
Giăng, các chương 14 đến 17. Trong 4 chương này, sự nhấn mạnh chính yếu là sự
chuyển dịch của Chúa từ xác thịt đến Linh qua sự chết và sự phục sinh. Ngài
phải biến đổi trong hình thể từ xác thịt qua Linh bởi được đưa vào sự chết và
phục sinh. Trong Giăng 6:63, Ngài phán: “ấy là linh ban cho sự sống, xác thịt
chẳng ích chi” (Bản A.S.V). Đang khi Ngài còn ở trong xác thịt và không ở trong
Linh, Ngài đã không bao giờ ngự vào chúng ta và ban sự sống cho chúng ta được.
Qua sự chết và phục sinh Ngài đã được biến đổi hình dạng từ xác thịt qua Linh.
Nên, sau sự phục sinh của Ngài, Ngài đã đến cùng các môn đồ và hà hơi trên họ,
phán: “hãy nhận lãnh Thánh Linh” (Giăng 20:22). Điều này ngụ ý rằng, Ngài đã
được các môn đồ tiếp nhận như Thánh Linh – hơi thở thần thượng. Tỏ rõ rằng điều
này dành cho sự sống. Phương diện bên ngoài của công tác Thánh Linh được thấy
trong các văn phẩm của Luca. Trong Luca 24;49, các môn đồ được bảo chờ đợi tại
Giêrusalem cho đến khi họ được “mặc” quyền năng từ trên cao. Theo bản văn Hi
Lạp câu này dùng từ liệu “mặc”. Ở đây Thánh Linh được ví sánh như y phục, một
điều hoàn toàn khác biệt với nước uống. Nước uống là cho sự sống, nhưng y phục
là cho quyền bính. Rồi trong Sứ 2:2 Đức Thánh Linh được ví sánh như “một cơn
gió mạnh”. Gió mạnh là cho quyền năng. Nó có vài liên hệ với hơi thở, vì ấy là
gió đưa không khí tươi mát đến để hô hấp. Nhưng ý nghĩa chính yếu của gió là
quyền năng. Hơi thở là cho sự sống, và gió là cho quyền năng.
Trong phúc âm
Giăng đã dùng nước uống và hơi thở như hai biểu hiệu của Thánh Linh. Đó là phương
diện bề trong cho sự sống, vì phúc âm của Giăng liên quan chính yếu với sự
sống. Tuy nhiên Luca đã dùng hai biểu hiệu khác: y phục và gió mạnh. Các văn
phẩm của Luca (phúc âm của ông và Sứ đồ) không nhấn mạnh sự việc của sự sống,
nhưng sự rao giảng phúc âm (24:47; Sứ 1:8). Khi rao giảng phúc âm, quyền bính
và quyền năng là cần đến. Vây nên y phục tượng trưng quyền bính và gió mạnh
tượng trưng quyền năng. Nếu một viên cảnh sát toan thi hành quyền bính mà không
mặc đồng phục đúng đắn, không ai sẽ kính trọng quyền bính ông, nhưng khi mang y
phục đúng đắn, mọi người sẽ tôn trọng bính quyền ông tác động trong khả năng
của một người duy trì luật pháp. Ngay cả như vậy chúng ta phải được mặc bằng
Thánh Linh để có bính quyền thần thượng và quyền năng cho công tác của Đức Chúa
Trời.
Cả hai phương
diện của công tác Thánh Linh là cần thiết cho chúng ta. Bên trong chúng ta cần
uống Thánh Linh cho sự sống, và bên ngoài chúng ta cần được mặc bằng Thánh Linh
cho quyền bính. Bên trong chúng ta cần hơi thở của Thánh Linh hà hơi vào chúng
ta cho sự sống, và bên ngoài chúng ta cần gió Thánh Linh thổi trên chúng ta cho
quyền năng. Phương diện bề trong là Thánh Linh như sự sống bên trong chúng ta.
Phương diện bên ngoài là Thánh Linh như quyền năng trên chúng ta. Phương diện bên
trong của sự sống là cho kinh nghiệm bề trong của chúng ta, và phương diện bên
ngoài của quyền năng là cho kinh nghiệm bên ngoài. Phương diện bên trong là “ở
trong” chúng ta (Giăng 4:17; 4:14; 7:38) cón phương diện bên ngoài là “ở trên”
hay “trên” chúng ta Luca 24:49; Sứ 1:8; 2:3; 8:16; 10:44; 19:6).
Phương diện bên
ngoài của quyền năng là luôn luôn vì cớ phương diện bên trong của sự sống. Ấy
là bởi sự việc bề trong mà khát vọng của Đức Chúa Trời, mục tiêu chủ yếu của
Đức Chúa Trời được thành toàn. Phương diện bên ngoài là phương diện hoàn thành
phương diện bề trong. Trong I Cô 12:13, chúng ta có hai phương diện được đề cập
trong trật tự đúng đắn. Thứ nhất chúng ta đã được “báp têm”, và thứ hai chúng
ta đã được khiến cho “uống”. Sau khi chúng ta đã được báp têm trong linh vào
trong một Thân Thể, chúng ta phải uống Thần Linh, để chúng ta có thể tăng
trưởng trong sự sống và được kiến tạo thành Thân Thể Ngài. Được bép têm trong
Thánh Linh, là được đặt vào trong Ngài, thật y như được báp têm trong nước là
được dìm vào trong nước. Nhưng uống Thánh Linh là nhận lấy Ngài vào trong chúng
ta, như uống nước là lấy nó vào trong chúng ta. Báp têm là ở bên ngoài và uống
là ở bên trong. Báp têm bên ngoài là cho sự sống bên trong.
BÁP TÊM TRONG THÁNH LINH
Phương diện bên
ngoài của công tác Thánh Linh là bao gồm hầu hết trong báp têm của Thánh Linh.
Có năm trường hợp lịch sử về sự đổ ra của Linh đã được ghi chép trong sách Sứ
đồ. Chỉ hai trường hợp được gọi là báp têm trong Thánh Linh: sự đổ ra ở ngày
ngũ tuần trong sứ đồ 2: cho các tín hữu Do Thái và sự đổ ra cho các tín đồ
ngoại bang trong nhà của Cotrây trong Sứ đồ 10. Sứ đồ 1:5 và 11:15-17 kiểm
chứng cho sự kiện này. Trong hai tỉ dụ này, Christ như là Đầu đã làm báp têm
cho các phần người Do Thái và người ngoại bang của Thân Thể Ngài trong Thánh
Linh một lần đủ cả. Bởi làm vậy, Ngài đã hoàn thành đầy đủ báp têm trong Thánh
Linh trên toàn thể Thân Thể Ngài. Với ba trường hợp này – (1) các tín đồ Samari
trong Sứ đồ 8:17, (2) Sau lơ trong Sứ đồ 9:17 và (3) các tín đồ Êphêsô trong Sứ
đồ 19:6 - Thánh Linh ghi chép tác động đặt tay qua các chi thể đại biểu của
Thân Thể. Ý nghĩa của tác động này là báp têm trong Thánh Linh đã hoàn thành
trên Thân Thể rồi bởi Cái Đầu, được truyền đạt cho các chi thể mới mẻ của Thân
Thể qua sự việc đồng nhất hóa với Thân Thể, Sự đặt tay chỉ là một hình thức, ý
nghĩa thực hay thực tế của điều đó là chúng ta phải được liên kết cách hợp lý
với Thân Thể hầu chúng ta có thể được ở trong địa vị đúng để dự phần báp têm
trong Thánh Linh mà đã được hoàn thành rồi trên Thân Thể. Vì vậy ba trường hợp
này không phải là ba sự báp têm riêng rẽ trong Thánh Linh nhưng ba kinh nghiệm
của một báp têm trong Thánh Linh mà Thân Thể của Christ đã nhận lãnh rồi.
Báp têm trong
Thánh Linh là một việc duy nhất mà đã hoàn thành rồi trên Thân Thể của Christ
hơn 1900 năm trước. Nhưng các kinh nghiệm của báp têm trong Thánh Linh là rất
nhiều và được tiếp tục chia xẻ bởi tất cả các chi thể của Thân Thể Christ, tức
các người nhận thức nó theo đường lối này. Vì vậy chúng ta phải nhìn nhận một
báp têm và tìm kiếm nhiều kinh nghiệm của báp têm ấy. Trước hết Phierơ đã nhận
lãnh báp têm (Sứ 1:5, 8; 2:4) và về sau ông lại cứ luôn kinh nghiệm nó (Sứ 4:3,
34).
Chúng ta cũng phải
nhớ rằng báp têm trong Thánh Linh không phải là vì sự sống, nhưng cho quyền
năng. Đó không phải là sự sống đầy dẫy bên trong của Thánh Linh, nhưng phương
diện bên ngoài của công tác Đức Thánh Linh. Nhiều cơ đốc nhân và thậm chí nhiều
giáo sư cơ đốc làm lộn xộn sự báp têm bên ngoài trong Thánh Linh với sự đầy dẫy
bên trong của Thánh Linh. Điều này sai trật. Hai chữ Hi Lạp khác nhau đã được
dùng trong Tân ước cho 2 phương diện này. Một là “Pleeroo” cho sự đầy dẫy bên
trong, chữ kia là “pleetho” cho sự đầy dẫy bên ngoài. “Pleeroo” được dùng trong
Sứ 13:52 và Êphêsô 5:18. Còn chữ “Pleerees”, hình thức tĩnh từ của “Pleeroo”,
được tìm thấy trong Luca 4:1; Sứ 6:3, 5; 7:55 và 11:24. Đây là các tỉ dụ của sự
đầy dẫy bên trong của Thánh Linh. “Pleetho” được dùng trong Luca 1:15, 41, 67;
Sứ 2:4; 4:8, 31; 9:17 và 13:9. Tất cả các tỉ dụ này đều liên hệ đến sự đầy dẫy
bên ngoài, tức sự đổ ra của Thánh Linh. Cả hai chữ này đều được dùng trong Sứ
2:2-4. Gió mạnh đã đầy dẫy (Pleeroo) nhà, nhưng các môn đồ đã được đầy dẫy
(Pleetho) với Thánh Linh. Các nhà được đầy dẫy bên trong nhưng các môn đồ được
đầy dẫy hay mặc bên ngoài. Chúng ta đừng bao giờ lẫn lộn các phương diện bên
trong và bên ngoài của công tác Thánh Linh. Bên trong cho sự sống, bên ngoài
cho quyền năng.
MỘT SỰ KIỆN ĐÃ HOÀN THÀNH
Báp têm trong
Thánh Linh đã được hoàn thành rồi, như được thấy trong I Cô 12:13, “Vì chưng
chúng ta hoặc người Do Thái, hoặc người Hi Lạp, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, thảy
đều đã chịu báp têm trong Thánh Linh vào trong một Thân Thể”. Hãy ghi nhận động
từ ở đây thuộc thì quá khứ. Báp têm của toàn Thân Thể Christ là một việc đã
được hoàn thành rồi và vẫn còn tồn tại. Nó không được hoàn thành trong tương
lai hay ngay cả trong hiện tại, nhưng nó đã được hoàn thành rồi và vẫn còn tồn
tại. Điều này cùng nguyên tắc như điều đã áp dụng cho sự đóng đinh của Chúa Jésus.
Nếu chúng ta muốn tin nơi Ngài, chúng ta không cần yêu cầu Ngài chết lần nữa
cho chúng ta, vì cớ sự chết cứu chuộc của Ngài đã được hoàn thành rồi. Điều này
giống như báp têm trong Thánh Linh. Báp têm này đã được hoàn tất cách trọn vẹn
trên Thân Thể và bây giờ tồn tại trên Thân Thể, sẵn sàng cho chúng ta nhận lấy.
Chúng ta không cần yêu cầu Chúa làm một cái gì lần nữa để báp têm chúng ta
trong Thánh Linh. Chúng ta đã được Chúa làm báp têm chung với Thân Thể rồi.
Điều chúng ta cần làm bây giờ là đơn sơ tiếp nhận điều đã được hoàn thành rồi!
Sự nhục hóa, sự
đóng đinh, sự phục sinh và sự thăng thiên của Christ đều là các thực sự hoàn
tất, thật y như sự hiện xuống của Ngài trong Linh.
Chúa đã không chỉ
ngự lên trên các từng trời, nhưng Ngài cũng đã ngự xuống trên hội chúng Ngài
trong Linh. Ý nghĩa xác thực của việc Ngài ngự xuống là sự báp têm trong Thánh
Linh. Mười ngày sau sự ngự lên của Ngài, Ngài đã ngự xuống trong Linh để mặc
lấy Thân Thể Ngài. Trước thì giờ này hội chúng vốn không có quyền bính và quyền
năng. Nhưng bây giờ Christ diệu kỳ này – tức Đấng đã nhục hóa, chịu đóng đinh
và phục hoạt – ngự lên trên các từng trời và ngụ ngôi ở đó. Mọi sự đã hoàn tất
và hoàn thành; nên Ngài đã ngự xuống trong Linh để mặc bao Thân Thể Ngài như
quyền bính và quyền năng. Hội chúng đã được báp têm trong Thánh Linh bởi Christ
đã thăng thiên và ngự xuống này. Đây là báp têm trong Thánh Linh mà đã được
hoàn thành tại ngày ngũ tuần và trong nhà của Cọtnây trên Thân Thể của Christ
chúng ta phải nhận thức rằng tất cả chúng ta đã có ở đỏ! Báp têm này trong
Thánh Linh là thuộc về chúng ta, vì cớ chúng ta là các chi thể của Thân Thể đã
chịu báp têm này. Chúng ta cần đọc lại I Cô 12:13: “Thảy đều đã chịu báp têm
trong Thánh Linh”. Tất cả chúng ta đều đã được báp têm rồi!
Thánh Kinh bày tỏ
minh bạch cho chúng ta rằng Christ đã chết vì các tội lỗi của chúng ta. Và
chúng ta được bảo rằng chúng ta đã được báp têm trong Linh rồi. Chúng ta biết
rằng Thánh Kinh, lời Đức Chúa Trời được gọi là Cựu và Tân ước. Thánh Kinh là
các giao ước của Đức Chúa Trời. Chữ “giao ước” (testament) có nghĩa xác thực là
“ý chỉ”, và một ý chỉ hay một di chúc (testament) là nhiều hơn một giao ước.
Một giao ước tương tự một sự thỏa thuận hay một khế ước. Trong một khế ước, một
vài điều nào đó được hứa hẹn hoàn thành nếu một vài điều kiện được thỏa mãn.
Tuy nhiên trong một di chúc mọi sự đểu đã hoàn thành rồi. Thánh Kinh không chỉ
là một giao ước tỏ cho chúng ta rằng Đức Chúa Trời sẽ làm nhiều điều cho chúng
ta, nhưng nó cũng là một di chúc bảo cho chúng ta rằng Ngài đã làm mọi sự rồi.
Tất cả mọi sự đã được hoàn tất và hoàn thành rồi, và Ngài đã đặt tất cả trong
một chúc ngôn và bây giờ để lại cho chúng ta. Một di chúc chỉ có hiệu lực khi
người ban cho đã chết. Christ, Đấng ban chúc ngôn, không chỉ đã chết để khiến
chúc ngôn có hiệu lực, nhưng là Christ phục sinh, Ngài cũng là Đấng thi hành
chúc ngôn. Ngài đã là đấng ban cho, bây giờ Ngài là Đấng thi hành. Mọi sự trong
Kinh Thánh đã hoàn thành rồi đó là một chúc ngôn.
Làm thế nào chúng
ta biết rằng Christ đã chết vì các tội lỗi của chúng ta? Vì cớ trong di chúc
này chúng ta được bảo rằng, như một của nhiều chi tiết, Ngài đã chết rồi và tất
cả các tội lỗi của chúng ta đã đặt trên Ngài. Chúng ta không cần cầu nguyện
nhiều ngày hay đêm để được cứu. Không, chúng ta có thể được cứu tức thì bởi đơn
sơ tiếp nhận điều Chúa đã hoàn thành rồi và đã chi tiết hóa, trong di chúc của
Đức Chúa Trời. Làm sao chúng ta có thể biết rằng chúng ta đã được báp têm trong
Thánh Linh? Bởi cùng nguyên tắc đó, có một chi tiết khác trong di chúc bảo
chúng ta rằng: “vì chúng ta đều đã chịu báp têm trong một Linh”. Không chỉ báp
têm trong Thánh Linh đã được hoàn thảnh, nhưng nó cũng đã được truyền đến chúng
ta qua ý chỉ. Đó là một chi tiết của di chúc đã được ban cho chúng ta. Chúng ta
chỉ cần nhận lấy nó.
SỰ BIỂU LỘ
Một số cơ đốc
nhân luôn luôn cố tin rằng nói các tiếng lạ là một sự biểu lộ cần thiết của báp
têm trong Thánh Linh. Nhưng chỉ có hai trong năm trường hợp của sách Sứ đồ -
Người Samari và Saulơ của Tạtsơ – kỳ dư không có chỗ nào đề cập về nói tiếng lạ
cả. Các học giả Kinh Thánh nhìn nhận rằng nhiều lúc Đức Chúa Trời không đề cập
điều gì có ý nghĩa hơn điều Ngài đề cập. Với hai trong năm trường hợp, không có
sự biểu lộ đặc biệt nào được đề cập đến. Đây là lời chỉ dẫn rằng nói tiếng lạ
không phải là sự biểu lộ duy nhất và cần thiết của báp têm trong Thánh Linh.
Thậm chí với các trường hợp khác, không có lời minh chứng nào tỏ rằng tất cả
các tín đồ đều nói tiếng lạ. Sứ 19;6 tuyên bố: “Phao lô đặt tay trên họ, ai nấy
đều nói tiếng lạ và nói tiên tri”, mỗi một của 12 sứ đồ đều có nói tiếng lạ và
tiên tri không? Có thể và không có thể có. Có thể một số sứ đồ có nói tiếng lạ
và một số không. Nên, tiếng lạ không phải là sự biểu lộ duy nhất. Rồi Sứ 2:4
chép: “hết thảy đều được đầy dẫy Thánh Linh, khởi sự nói các thứ tiếng
khác,...”. Thậm chí cả câu này không minh chứng rằng tất cả họ đều nói tiếng
lạ. Thí dụ, khi chúng ta nói: “tất cả chúng ta đều đến buổi nhóm và bắt đầu cầu
nguyện”. Chúng ta có ý rằng tất cả đều cầu nguyện chăng? Không! Đây là một loại
trước tác. Tất cả họ đều đầy dẫy Thánh Linh, nhưng hoặc tất cả họ đều nói tiếng
lạ chăng là nghi ngờ. I Cô 12:29-30 hỏi, “Há cả thảy đều là sứ đồ sao? Cả thảy
đều là tiên tri không?... Cả thảy đều nói tiếng lạ sao? Câu trả lời tự động cho
vấn nạn nầy là một số không và một số có. Không phải mọi người đều là sứ đồ,
không phải mọi người đều nói tiếng lạ. Các cơ đốc nhân cố tin sự việc nầy giải
thích rằng câu nầy chỉ ngụ ý sự vận dụng các ân tứ. Họ bảo trong sự biểu lộ sơ
bộ, mọi người phải nói tiếng lạ. Nhưng điều nầy không có tính cách luận lý
(logic)! Làm thế nào một người nói tiếng lạ như là sự biểu lộ sơ bộ, nhưng lại
không vận dụng các ân tứ chứ?
Các thực sự của
lịch sử cũng có nhiều điều nói lên về sự việc nầy. Đã có nhiều nhân vật rất có
quyền năng và thuộc linh sâu nhiệm trải các thế kỷ đã không bao giờ nói tiếng
lạ. Anh Nghê Thác Thanh không bao giờ nói tiêng lạ. Một lần kia anh đã gởi cho
tôi một điện tín ghi câu, “không phải mọi người nói tiếng lạ đâu”. Anh Nghê đã
nghiên cứu Lời rất thông suốt. Tôi chưa bao giờ gặp một người nào quen thuộc
kinh Thánh như anh. Anh đã tìm thấy kinh Thánh cách sáng tỏ rằng, “không phải
mọi người đều nói tiếng lạ”. Cố tin rằng mọi người phải nói tiếng lạ là không
đúng kinh Thánh, nhưng nói rằng nói tiếng lạ thuộc thời kỳ đã qua thì cũng sai
lầm.
Toàn bộ tân ước
chỉ có một tỉ lệ nhỏ chép về nói tiếng lạ. Điều đó không được đề cập gì cả
trong Lamã, một của các sách căn bản của sinh hoạt cơ đốc nhân, nó cũng không
được đề cập trong II Côrinhtô, galati ,
Êphêsô, Philíp hay Côlôse. Nó không có ở trong I và II Têsalônica, I và II
Timôthê, Tít, Philêmôn, Hêbơrơ, giacơ, I và II Phierơ, I, II và III giăng,
giuđe hay khải thị. Trong tất cả các thơ tín tân ước, điều đó chỉ có đề cập
trong I Côrinhtô. Nếu thái độ của chúng ta công bằng, chúng ta sẽ nhìn nhận
rằng thậm chí trong I Côrinhtô phaolô đã luận về nói tiếng lạ trong ý nghĩa hạn
chế, chỉnh lý, sửa sai và thất vọng. Vào đầu sách, ông tuyên bố rằng Christ là
phần của chúng ta. Christ đã bị đóng đinh là quyền năng và khôn ngoan của Đức
Chúa Trời, và Đức Chúa Trời đã làm Ngài nên sự khôn ngoan của chúng ta: Cả sợ
công nghĩa, nên thánh và cứu chuộc. Điều nầy có ý nghĩa Ngài là mọi sự của
chúng ta. Rồi trong chương 2, ông bảo rằng ông đã quyết định không biết điều gì
trừ Christ ra và Christ bị đóng đinh. Ông bảo cùng các tín đồ Côrinhtô rằng họ
có tất cả các loại ân tứ (1:7); tuy nhiên tình trạng thuộc linh của họ thì ấu
trỉ và xác thịt, từ là đa dâm và thậm chí có xương thịt (3:1-3. Theo Hilạp văn
chữ “xác thịt” trong câu 1 có nghĩa “có xương thịt”, còn câu 3 có nghĩa “dâm
dục”). Khi ông đến chương 13 ông bảo họ về “đường tối diệu” (12:31), con đường
của sự sống. Thậm chí ông ta nói nếu chúng ta nói tiếng lạ của thiên sứ mà
không có tình yêu thương – có nghĩa không có sự sống, vì cớ tình yêu là biểu
hiện của sự sống – chúng ta chỉ là đồng la vang động. Chúng ta tạo tiếng ồn ào,
nhưng chúng ta không có sự sống. Trong chương 14, Phaolô khuyến khích chúng ta
tìm kiếm các ân tứ mà rất có ích lợi cho sự kiến tạo hội chúng. Nếu chúng ta
đọc toàn bộ sách I Côrinhtô, chúng ta thấy rằng sự việc của tiếng lạ không được
đụng đến theo một đường lối tích cực, nhưng là ngược lại. Dĩ nhiên, ân tứ nói
tiếng lạ có chỗ chứng trong Kinh Thánh, nhưng nó rất hạn hẹp.
ĐƯỜNG LỐI ĐÚNG ĐẮN ĐỂ KINH NGHIỆM BÁPTÊM TRONG THÁNH LINH
Chúng tôi đã đưa
ra định nghĩa đúng đắn của báptêm trong Thánh Linh. Bây giờ chúng ta phải nhìn
thấy đường lối đúng đắn để kinh nghiệm điều đó. Trước hết mọi sự, chúng ta phải
nhận thức rằng báptêm trong Thánh Linh là một thực sự đã hoàn tất. Đó là một
chi tiết của chúc ngôn, ý chỉ đã được ban cho chúng ta tất cả, và tất cả chúng
ta đều được kể cho điều đó như các chi tiết của thân thể. Tuy nhiên, chúng ta
đừng dừng lại ở đây. Chúng ta phải tiếp tục.
(1) Chúng tả phải
đúng với thân thể của Christ và đứng trong đó. Vì báptêm trong Đức Thánh Linh
đã được hoàn thành trên thân thể của Christ và cứ tồn tại trên đó, chúng ta
phải liên hệ đúng đắn với thân thể của Christ và duy trì mối liên hệ đúng đắn
với thân thể để hiệp một với nó. Dĩ nhiên chính chúng ta phải đúng đắn với
Chúa. Bất cứ tội lỗi nào, bất cứ điều nào sai lầm giữa chúng ta và Đức Chúa
Trời phải được xử lý triệt để qua sự tẩy sạch của huyết Đấng Christ. Không điều
gì giữa Chúa và chúng ta có phép tồn tại nên chúng ta phải giữ đúng đắn với
thân thể của Christ. Mọi sự làm hư hỏng, làm xao lảng hay phân rẽ chúng ta khỏi
thân thể phải được sử lý cách đầy đủ và duy trì sự hiệp nhất và hòa hợp thiết
thực với thân thể và các chi thể của nó. Nếu nó vài phân rẽ nào hiện hữu, nếu
chúng ta sai trật với thân thể, nếu chúng ta không đứng và giữ địa vị chúng ta
trong thân thể, chúng ta sẽ đánh mất lập trường để đòi hỏi và dự phần báptêm
trong Thánh Linh. Vì báptêm đã ở trên thân thể, thân thể là lập trường cho
chúng ta đòi hỏi và tiếp lấy báptêm ấy. Vì vậy, một sự đồng nhất hóa thiết thực
và mối liên hệ đúng đắn với thân thể là cần thiết để kinh nghiệm báptêm trong
Thánh Linh.
(2) Chúng ta phải
tiếp nhận báptêm trong Thánh Linh bởi đức tin sinh động. Nếu chúng ta đúng đắn
với thân thể của Christ, chúng ta đang ở trong một địa vị để tiếp nhận báptêm
trong Thánh Linh. Chúng ta phải nhận thức rằng điều đó đã được hoàn thành rồi
và bây giờ đang tồn tại trên thân thể của Christ. Là các chi thể của Christ,
đang duy trì một mối liên hệ đúng với thân thể chúng ta đủ tư cách để đòi hỏi
nó qua sự vận dụng đức tin sinh động. Chúng ta phải tiếp nhận nó y như việc
chúng ta đã tiếp nhận giá trị sự chết cứu chuộc của Chúa. Chúng ta đã không
tiếp nhận nói theo cảm xúc của chúng ta hay một loại mệnh danh biểu hiện nào.
Chúng ta đã tiếp nhận sự cứu chuộc của Chúa chỉ vì bởi tin cách đơn sơ, và Chúa
đã tôn trọng điều đó. Khi chúng ta tin vào thực sự hoàn tất trong sự chết của
Chúa cho các tội lỗi chúng ta, Đức Chúa Trời yên lặng tôn trọng đức tin chúng
ta, sự tha thứ các tội lỗi và sự sống Thần Thượng đã được ban truyền cho chúng
ta và chúng ta có bình an vui vẻ ở bên trong. Chúng ta chỉ tin điều Chúa đã hoàn thành theo điều chúng ta đã được
tỏ ra trong ý chỉ. Ý chỉ cũng bảo chúng ta rằng báptêm trong Thánh Linh và chờ
đợi được tiếp lấy. Chúng ta, những người có liên hệ với thân thể của Christ,
chỉ đơn giản tiếp nhận nó bởi đức tin sinh động. Nếu chúng ta có ý tưởng hoạt
động cho Chúa, Ngài sẽ tôn trọng đức tin chúng ta.
Không cần tìm
kiếm các cảm giác, sự biểu lộ hay dấu lạ. Chúng ta đừng bao giờ tin cậy nơi cac
điều này. Nếu chúng ta tìm kiếm các điều nầy, chúng ta có một tấm lòng ác và vô
tín. Chúng ta đang cố sức minh chứng hay thử Chúa. Chương thứ 3 của Hêbơrơ, bày
tỏ thế nào các con cái Ysơraên đã thử nghiệm và dò xét Chúa trong đồng vắng vì
cớ lòng vô tín của họ. Hõ đã không biết các đường lối của Chúa, nhưng chúng ta
biết. Không cần thử nghiệm Chúa. Chúng ta phải đơn giản tiếp nhận lời Ngài đang
khi ở trong địa vị đúng đắn. Lời Ngài ở đây trong ý chỉ của Ngài. Các dấu lạ và
các bằng cớ là không cần thiết. Chúng ta nên bảo kẻ thù, Satan rằng chúng ta
không cần dấu lạ hay bằng cớ nào. Chỉ có một bằng cớ là đủ tốt rồi – đó là ý
chỉ! Đó là một minh chứng mạnh mẽ và đầy đủ cho chúng ta rằng báptêm trong
Thánh Linh đã được hoàn thành và ban cho. Vì bây giờ chúng ta ở trên lập trường
đúng đắn, đứng trên và đứng chung với thân thể, chúng ta có thể tiếp nhận nó.
Tôi có thể chứng
tỏ cho anh em rằng khi chúng ta tin lời Chúa theo đường lối nầy, Ngài sẽ tôn trọng
đức tin chúng ta. Hãy giao các dấu lạ vào tay Ngài. Hãy đứng trong thân thể và
tin nơi ý chúc ngôn. Rồi bất cứ khi nào anh em cần quyền năng, Chúa sẽ ban cấp
cho. Hãy nhìn xem các thánh tử đạo trong lịch sử giáo hội. Trước khi họ tuận
đạo, có thể họ đã không quá quan tâm về báptêm trong Thánh Linh, nhưng họ yêu
Chúa. Thậm chí họ hy sinh mạng sống cho chứng cớ của Chúa. Khi họ bị mang ra
nơi tuẫn tiết, lúc đó quyền năng đã biểu lộ, gương mặt của họ trong giống mặt
chim ưng. Có nhiều câu chuyện giống như vậy.
Nhiều lúc chúng
ta giảng phúc âm theo một đường lối vô tín. Chúng ta chỉ tin một phần, không
tin toàn thể, nên chúng ta không có quyền năng. Chúng ta tin Chúa đã chết cho
chúng ta, nhưng chúng ta không tin Ngài đã báptêm chúng ta trong Thánh Linh. Vì
vậy chúng ta không có quyền năng trong khi rao giảng phúc âm. Nếu chúng ta đứng
trong thân thể, tin nơi chúc ngôn toàn thể, và tiếp nhận thực sự hoàn tất của
báptêm trong Thánh Linh trên thân thể bởi đức tin sinh động chúng ta sẽ trói
người Mạnh sức và khớp miệng hắn. Tất cả các vách thành Giêricô sẽ sụp đổ.
Chúng ta sẽ thấy quyền năng thật trong khi rao giảng phúc âm.
Đứng trong thân
thể, tin nơi ý chỉ và tiếp lấy thực sự đã hoàn tất bởi đức tin đòi hỏi là đường
lối đúng đắn và kiến hiệu để kinh nghiệp báptêm trong Thánh Linh. Nguyện Chúa
bởi ân điển và sự thương xót của Ngài ban cấp cho chúng ta kinh nghiệp báptêm
nầy cách phong phú.