Sứ Đồ Phao-lô Của Ấn Độ
Bakht Singh Chabra đuợc đa số cơ đốc nhân thế giới gọi là Brother Bakkt
Singh. Ông nổi tiếng là một nhà truyền giảng Tin lành tại Ấn độ và các nước
vùng Nam Á Châu. Ông thường được coi là một giáo sư, giảng sư và nguời tiền
phong trong sự chuyển động của các hội thánh tại Ấn độ trở lại nguyên tắc của
hội thánh đầu tiên.
Cơ đốc giáo Tây phuơng gọi ông là sứ đồ Phao-lô của Ấn độ, còn theo
truyền thống Ấn độ, ông đuợc nhìn nhận là “Ê-li của thế kỷ XXI” trong cơ đốc
giáo giới.
1. Những Năm Thơ Ấu:
Bakht Singh đuợc sinh ra vào năm 1903 tại miền Punjab, hiện tại thuộc về
lãnh thổ Pakistan .
Cha mẹ ông là tín đồ ngoan đạo của tôn giáo tên là Sikh. Ông theo học trường
của hội truyền giáo cơ đốc, nhưng ông không hề bị ảnh huởng bởi các cơ đốc
nhân, và trong lòng mình, ông luôn luôn khinh bỉ các cơ đốc nhân. Ông tích cự
tham dự các hoạt động xã hội của các đền thờ đạo Sikh. Sau khi tốt nghiệp trường
đại học Punjab, ông đi Anh quốc để học cao hơn vào năm 1926, và nghiên cứu
ngành kỷ sư nông nghiệp. Cha mẹ ông không ủng hộ việc ông đi du học ở Anh quốc,
lưu tâm rằng ông sẽ bị các cơ đốc nhân gây ảnh hưởng. Bakht Singh hứa cùng cha
mẹ rằng ông sẽ không cải đạo. Vào thời đó, đế quốc Anh còn thi hành quyền lực
đô hộ trên các xứ thuộc địa là : Ấn độ, Pakistan ,
Bangladesh ,
và Srilanka .v.v…
2. Cuộc Sống Tại Anh Quốc Và Canada :
Tại Anh quốc, ông huởng thụ sự tự do và chịu ảnh huởng cách lớn lao theo
thời trang và phong cách của dân Anh quốc. Ông nhanh chóng hoà nhập theo thời
trang cuộc sống, khởi sự hút thuốc lá và uống ruợu, du hành quanh Châu Âu, và
buông lung trong mọi loại vui chơi và trò tiêu khiển. Ông cắt bỏ tóc dài, mà là
dấu hiệu lòng trung thành của ông đối với tôn giáo Sikh. Nhiều năm về sau, ông
đã đến Kings College ở Luân đôn, và vào năm 1929, Bakht Singh đi đến Canada và
tiếp tục nghiên cứu trong lãnh vực kỷ sư canh nông, tại đại học đuờng Manitoba
ở Winnipeg. John và Edith Hayward, là cư dân địa phuơng và là cơ đốc nhân sùng
đạo, đã giúp đỡ ông. Họ mời ông sống chung với họ. Gia đình Hayward luôn luôn đọc Kinh thánh vào mọi giờ
ăn tối. Họ cũng tặng cho ông một quyển Kinh thánh. Ông ưa thích đoàn thể của
họ, thăm viếng nhà giảng của họ và khởi sự đọc Kinh thánh. Sau một thời gian
tìm kiếm, ông đã tiếp nhận Jesus Christ làm Cứu Chúa cá nhân và Đức Chúa Trời
của mình. Ông đã chịu báp-têm và ngày 04-02-1932 tại Vancouver , Canada .
3. Công Tác Cơ Đốc Tại Ấn Độ:
Bakht Singh đã trở về Ấn độ vào năm 1933, và gặp lại cha mẹ ông tại
thành phố Mumbrai. Truớc khi về nuớc, ông đã gởi thơ thông tin cùng cha mẹ rằng
ông đã cải đạo để tin theo Chúa Jesus. Họ đã miễn cuỡng chấp nhận ông, nhưng
yêu cầu ông, vì danh dự của gia đình, ông phải giữ kín việc đó. Nhưng vì cớ ông
khuớc từ sự đòi hỏi của họ, họ rời bỏ ông.
Đột nhiên, ông trở nên người không nhà. Ông
khởi sự rao giảng phúc âm trên các đuờng phố ở Mumbrai. Ít lâu sau, ông khởi sự
thu hút được một quần chúng đông đảo, nghe ông giảng.
Bakht Singh bắt đầu rao giảng như một giảng sư và nhà phục hưng lưu động
bốc cháy trên khắp thuộc địa Ấn độ, và chiếm đuợc nhiều nguời theo mình. Lúc
đầu, ông rao giảng như một nhà giảng phúc âm của Anh quốc giáo, trước khi ông
sống độc lập. Trong quyển sách nhan đề, “Tự điển tiểu sử của các hội truyền
giáo cơ đốc”, do nhà xuất bản Simon & Schuster Macmillan ấn hành năm 1998,
tiến sĩ Jonathan Bonk tuyên bố, “vai trò của Singh trong cuộc phục hưng năm
1937 mà đã càn quét hội thánh Truởng lão liên hiệp tại Martinbur, đã mở đầu một
trong các cuộc chuyển động nổi tiếng nhất trong lịch sử hội thánh tại tiểu lục
địa Ấn độ”.
Khi nhận đuợc khải tuợng từ Đức Chúa Trời, ông đã khởi đầu xây dựng các
hội chúng địa phuơng hoàn bị theo khuôn mẫu của các nguyên tắc Tân uớc mà ông
nhìn thấy. Sau khi dành trọn một đêm cầu nguyện trên đỉnh một ngọn núi vào năm
1941, ngay năm đó, ông dựa vào Lê vi ký chuơng 23, tổ chức cuộc hội đồng thánh
khiết (Holy Convocation) đầu tiên tại Chennai, để đánh dấu sự thay đổi trong
công tác hầu việc Chúa của mình. Ông không còn làm nhà truyền giảng phúc âm
suông nữa. Nhưng từ nay ông đem các kết quả của công tác phúc âm xây dựng thành
các hội chúng tại các địa phuơng, từ thành phố lớn như New Delhi, Madras hay
các thị trấn như Kalimpong, hoặc tại các làng mạc ở vùng quê.
Bakht Singh xây dựng các hội thánh theo đường lối Tân uớc. Ông gọi “hội
thánh” là “assembly” (hội chúng), do một ban trưởng lão huớng dẫn. Trong buổi
nhóm, họ nhấn mạnh chức vụ lời của vài tôi tớ Chúa rao giảng, hơn là thực hành
loại nhóm họp theo 1 Corinhto 14. Mỗi hội chúng có một tên thánh trong Kinh
thánh, như hội chúng ở thành phố Hyderabad ở
miền nam có tên là Hếp-rôn, hội chúng ở Madras
có tên là “Jehovah Shammah”. Hyderabad
vừa có hội chúng địa phuơng, vừa có trung tâm công tác toàn quốc, với nhiều cơ
sở vật chất qui mô.
Từ năm 1941 đến năm 2000, là năm Bakht Singh về với Chúa, Ngài đã dùng
ông và các đồng công dấy lên 200 hội chúng lớn nhỏ tại Pakistan, mấy trăm hội
chúng khác tại Ấn độ, và nhiều hội chúng ở các lân quốc. Cơ quan xuất bản
Hebron có ấn hành tờ tạp chí bán nguyệt san “Hebron Messengers” và khoảng 10
quyển sách bồi linh Anh Văn, bao gồm các bài giảng tuơi mới và sống động của
ông. Đương nhiên họ có nhiều ấn phẩm bằng các ngôn ngữ khác nhau của Ấn độ.
Hằng năm, các cuộc hội đồng thánh khiết được họp lại, hoặc tại Madras và Hyderaba ở miền
nam, và tại Ahmedabad hoặc Kalimpong, ở
miền bắc. Hội đồng tại Hyderabad
luôn luôn đông đảo nhất, thu hút đến 25.000 tín đồ tham dự. Họ ăn và ngủ trong
trong các lều trại to lớn, và nhóm họp duới mái lều tranh, tham dự các buổi cầu
nguyện nhiều giờ, các buổi nhóm ngợi khen và dạy dỗ. Các buổi nhóm khởi sự vào lúc
rạng đông và chấm dứt vào đêm khuya. Các tín đồ tình nguyện sẽ chăm sóc và nuôi
duỡng các vị khách mời. Chi phí cho các kỳ nhóm họp nầy dựa vào các của dâng
tình nguyện. Điểm đặc biệt là họ không bao giờ kêu xin hay thông báo về nhu cầu
tài chánh.
4. Bakht Singh Qua Đời:
Vào ngày 21-9-2000, Bakh Singh qua đời trong giấc ngủ và được an táng
trong nghĩa trang cơ đốc ở Narayanguda. Có 250.000 thánh đồ tham dự tang lễ của
ông. Các hội chúng do Bakht Singh thành lập vẫn tồn tại ở Ấn độ ngày nay.
“ Nguyện sự chúc tụng, tôn trọng, vinh hiển và đại năng đều về nơi Đấng
ngự trên ngai, cùng về nơi Chiên Con cho đến đời đời vô cùng” Amen (Khải 5:13”
- Minh Khải