Friday, September 21, 2012

Công cuộc khai hoang ở Nam Bộ vào thời các chúa Nguyễn


Đúng ra, việc khai hoang miền Đông Nam Bộ buổi ban đầu là do di dân người Việt tự động vượt biển vào đây tìm đất lập nghiệp không có sự can thiệp hay tổ chức gì của các chúa Nguyễn.

Chỉ từ năm 1698, khi Nguyễn Hữu Kính (có sách gọi là Cảnh) theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào "kinh dịch" (tổ chức việc quản lý hành chính, kinh tế, xã hội) thì đất Đông Phố (tên cũ gọi chung đất Biên Hòa - Gia Định ngày nay) mới bắt đầu chịu sự cai trị của các chúa Nguyễn, và dân số ở đây đã có hơn 10.000 hộ với 200.000 khẩu.

Vì vậy, nét đặc trưng độc đáo nhất của đất Nam Bộ là ngay từ đầu và trong suốt 300 năm sau, đều thuộc quyền tư hữu của nông dân hay điền chủ, chứ không bao giờ thuộc quyền sở hữu tập trung của nhà vua như ở miền Bắc, miền Trung, mặc dù về danh nghĩa quy định đất đai là tài sản của nhà vua. Không phải chỉ dưới thời các chúa Nguyễn trong các thế kỷ XVII, XVIII mà ngay cả dưới thời các vua Nguyễn từ thế kỷ XIX trở đi, để khuyến khích dân đẩy mạnh khai hoang, vua quan triều Nguyễn vẫn mặc nhiên thừa nhận quyền tư hữu đất đai của những người có công khai phá.

Trong Gia Định thành thông chí một tác phẩm được viết đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức đã phản ảnh lại tình hình này như sau: "Dân ở vùng này đều có thể tự do đi khai khẩn đất ruộng ở các vùng khác, ai muốn đến ở đâu, khai khẩn ruộng gò, ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Lựa chọn đất đai rồi chỉ cần khai báo với nhà cầm quyền là mình trở thành nghiệp chủ khoảnh đất ấy, chính quyền cũng không đo đạc xem diện tích bao nhiêu, không cần biết đất ấy tốt xấu thế nào. Người nghiệp chủ tùy theo điền sản mình chiếm rộng hẹp mà tự nguyện nộp thuế nhiều hay ít và nộp thuế bằng thóc dùng hộc già hay hộc non đong cũng được".

Chỉ từ thế kỷ XVIII trở đi, khi có những đợt di dân khẩn hoang lớn do chính quyền nhà Nguyễn tổ chức, do binh lính thực hiện, hay do "dân có vật lực" chiêu mộ đi khẩn hoang lập đồn điền thì tình trạng di dân tự do khai hoang mới không còn dễ dàng nữa.


Như vậy là quá trình khai hoang châu thổ Nam Bộ dưới thời nhà Nguyễn đã được tiến hành qua ba giai đoạn theo ba phương thức:


Giai đoạn đầu trong thế kỷ XVI đến năm 1698, do từng nhóm nhỏ di dân người Việt ở miền Bắc, miền Trung đi lẻ tẻ vào theo hai hướng đường biển và đường bộ, chỉ dừng lại ở miền Đông khai khẩn những vùng đất cao ven sông, nơi có nước ngọt hay ở những vùng giáp ranh con nước giữa ngọt mặn mới có thể sinh hoạt và trồng trọt.


Giai đoạn hai là dưới thời các chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII, XVIII (từ 1698, đến cuối thế kỷ XVIII). Trong giai đoạn này phương thức từng nhóm nhỏ đi lẻ tẻ vào khai hoang vẫn còn tiếp tục, nhưng chủ yếu đã thêm hai phương thức mới:


Một là, việc khai hoang lập đồn điền của binh lính quan lại và kẻ giàu có - "dân có vật lực" - chiêu mộ dân từ Đàng Trong vào lập nên những điền sản lớn - những đồn điền quân sự hay dân sự.


Hai là, do các đoàn quân tướng người Hoa, nguyên là quan lại nhà Minh không chịu khuất phục nhà Mãn Thanh, bỏ chạy sang Việt Nam xin tị nạn làm ăn. Họ cũng tiến hành khai khẩn đất hoang phát triển nghề nông lúc đầu, nhưng chủ yếu chỉ nhằm phục vụ cho việc tồn tại của họ để về sau xây dựng chợ búa, phố xá, đô thị, đẩy mạnh việc mua bán, phát triển thành các vùng Cù Lao Phố, Nông Nại đại phố và Cảng Mang Khảm - Hà Tiên sầm uất phát đạt một thời.

Giai đoạn ba dưới các thời vua triều Nguyễn trong thế kỷ XIX (1802 - 1883) Sau khi thắng Tây Sơn, lên ngôi vua năm 1802, Gia Long vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc khai hoang ở đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở các chúa Nguyễn đã đạt được trong thế kỷ XVII, XVIII với tốc độ nhanh hơn, nhất là với các công trình đào kênh lớn như kênh Rạch Giá - Hà Tiên, kênh Vĩnh Tế... Nhà Nguyễn đẩy mạnh tốc độ khai hoang trong thế kỷ XIX nhằm 3 mục tiêu:

Một là, mở mang đất đai canh tác để phát triển sản xuất lương thực, đồng thời để tăng thêm nguồn thu tô thuế.


Hai là, để bảo đảm an ninh quốc phòng nhất là vùng biên giới phía Tây, thường có quân Xiêm quấy phá và dân bản địa vùng Ba Xuyên - Tịnh Biên cũng đã từng nổi dậy chống nhà Nguyễn. Việc khai hoang, lập đồn điền, đào kênh rạch ở vùng này nhằm mục đích chính yếu là kiểm soát, đề phòng và khống chế sự xâm lược của quân Xiêm và sự chống đối của dân địa phương.


Ba là, phát triển giai cấp địa chủ làm chỗ dựa cho chính quyền nhà Nguyễn ở Nam Bộ.

Sự quan tâm đặc biệt của các vua triều Nguyễn về việc đẩy mạnh khai hoang ở Nam Bộ thể hiện rõ trong con số tỷ lệ sau đây: Từ năm 1802 đến 1855, nhà Nguyễn đã ban hành 25 sắc dụ về việc tổ chức khai hoang trên toàn quốc, trong đó có đến 16 sắc dụ cho Nam Bộ, hai ở miền Bắc, một ở Kinh kỳ và sáu ở nơi khác.

Nhà Nguyễn cũng đã có nhiều biện pháp khai hoang tích cực:


- Khuyến khích di dân tự do khai phá đất hoang bằng nhiều thủ tục dễ dãi và tự do lựa chọn nơi khai phá, thậm chí vẫn còn trợ cấp thêm tiền thóc, nông cụ, có lệ khen thưởng bằng tiền và phẩm hàm chức sắc cho những ai khai hoang nhiều với các mức cụ thể từ 20 mẫu đến 800 mẫu, và cũng có lệ phạt bằng tiền, trừ lương và phạt đánh từ 60 trượng đến 100 trượng đối với các quan chức có trách nhiệm mà để ruộng đất bỏ hoang nhiều hay ít.


- Ra lệnh cho quan lại địa phương phải bảo đảm mức khai hoang lập làng mới để phát triển nông nghiệp và bảo đảm an ninh quốc phòng, nhất là ở vùng biên giới với chính sách được miễn thuế 3 năm nay hay lâu hơn và được thưởng phạt rõ ràng nghiêm khắc.


- Bản thân triều đình cử những đại quan đứng ra tổ chức binh lính hay mộ dân khai hoang lập đồn điền, xây dựng làng ấp, và đào những công trình thủy lợi quy mô để phát triển nông nghiệp và giao thông đường thủy.


Do đó, công cuộc khai hoang đào kênh phát triển nông nghiệp ở Nam Bộ dưới thời các vua Nguyễn nổi lên 3 đặc điểm đáng chú ý sau đây:


Một là, triều đình cử đại quan trực tiếp thực hiện.


Hai là, với những công trình thủy lợi quy mô lớn bằng hệ thống kênh mương nhân tạo thích hợp để giải quyết tích cực việc dẫn thủy nhập điền phát triển nông nghiệp.

 

Ba là, bên cạnh lực lượng cá nhân nhóm nhỏ lẻ tẻ tiểu nông và quân lính quan lại triều đình, lực lượng "dân có vật lực" chiêu mộ người nghèo đi khai hoang lập ấp ngày càng nhiều do chính sách khen thưởng khích lệ tích cực của triều đình, tạo ra tầng lớp điền chủ mới đông đúc, đưa đến tình trạng tranh giành, kiêm tính, chiếm đoạt ruộng đất, làm cho quá trình tập trung tích tụ ruộng đất bắt đầu với những điền chủ lớn có điền trang, điền sản mênh mông.

Cộng cả 3 lực lượng với những biện pháp và phương thức năng động tích cực nói trên, công cuộc khai hoang phát triển nông nghiệp ở Nam Bộ trong thời gian này đã đạt được những thành quả to lớn hơn 2 thế kỷ trước mà chủ yếu là mở rộng thêm đồng bằng miền Tây. Theo kết quả đo đạc của các đại thần Trương Đăng Quế, Nguyễn Kim Bảng, Trương Minh Giảng vào năm 1836 để lập điền bộ chính thức đầu tiên của 6 tỉnh thuộc Gia Định thành ghi rõ trong Quốc triều chính biên toát yếu thì tổng diện tích đất đai đã khai phá được của toàn Nam Bộ lúc bấy giờ là: "Nguyên trưng điền thổ 20.197 sở, 13 giây 8 đám và linh tinh 3.464 mẫu, nay đo đạc thành điền thổ khoảng hơn 60.075 mẫu và nguyên trước là ngạch ruộng hơn 65 sở, nay khám thành ao nuôi cá cả thảy 1.017 miếng". Về sau đến năm 1869, thực dân Pháp có công bố lại về con số này là 591.100 mẫu tức là 295.550 ha (trong Annuaire de la Cochinchine).

Con số cụ thể có thể thêm bớt ít nhiều, nhưng qua ba giai đoạn khai hoang trên 300 năm đã lần lượt hình thành 5 trung tâm phát triển nông nghiệp xung quanh những trung tâm đô thị sầm uất.


Khu vực dọc theo trục giao thông thủy bộ Mô Xoài - Bà Rịa - Trấn Biên (Biên Hòa - Đồng Nai) mà tâm điểm có thời là Cù Lao Phố, một thương cảng lớn nhất ở miền Nam lúc bấy giờ. Hệ thống địa điểm định cư phát triển nông nghiệp của vùng này là Bà Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân Uyên, Thủ Đức, Giồng Ông Tố, Thủ Thiêm, Nhà Bè, Thủ Dầu Một, Lái Thiêu...

Khu vực vùng Bến Nghé - Sài Gòn (Phiên Trấn). Sài Gòn hay Sài Côn mà trước là Prei Noker, mà ngày nay là Chợ Lớn. Đây là một vùng canh tác nông nghiệp lúa nước rộng lớn, kéo dài, bao trùm cả ngoại vi Bến Nghé, Sài Gòn, Cần Đước đến Gò Công, Cửa Đại, Ba Lai. Lấy tên là vùng Bến Nghé - Sài Gòn vì Bến Nghé - Sài Gòn là tâm điểm của vùng này. Suốt 300 năm qua đây là một trung tâm thương mại, một thương cảng, một đô thị lớn nhất của Nam Bộ và miền Nam. Tâm điểm này nối liền với Cù Lao Phố. Nó nằm cạnh ranh trấn Gia Định, an ninh được bảo đảm hơn, thị trường mua bán rộng rãi hơn, nên nó phát triển rất nhanh, thay thế vị trí Cù Lao Phố suốt thế kỷ XVIII, XIX trở đi.

 Vùng Ba Giồng (bao gồm một phần 2 huyện Phước Long, Tân Bình và bao trùm cả vùng Vũng Cù tức Tân An và Vàm Cỏ ngày nay). Đây là vùng đất canh tác nông nghiệp rất tốt, năm 1679 chúa Hiền đã cho phép Dương Ngạn Địch đem 1.000 quân lính và gia nhân đến khai phá lập nghiệp ở đây. Đến năm 1741 vùng này đã phát triển sung túc, nhiều thóc gạo. Kho lúa Cam Lạch (một trong chín kho lớn toàn quốc) đã được thiết lập ở đây để thu tô thuế tải về kinh.

Khu vực trung tâm đồng bằng sông Cửu Long ven sông Tiền, sông Hậu đến tận ven sông Vàm Cỏ gọi là vùng Mỹ Tho - Long Hồ (Vĩnh Long - Mỹ Tho - Cần Thơ - An Giang). Vùng đất này có một tầm quan trọng đặc biệt về cả hai phương diện chiến lược: bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển nông nghiệp. Tiền Giang và Hậu Giang là đường chuyển quân chính yếu giữa miền Nam và Cao Miên. Đây là vùng đất phì nhiêu màu mỡ rất tốt, quanh năm có nước ngọt, mùa lũ không ngập, một vùng đất lý tưởng để làm ruộng, trồng màu, trồng dâu nuôi tằm, trồng cau, dừa và các loại cây trái đặc sản. Về sa, đã sớm trở thành vựa lúa giàu có nhất nước. Đây cũng là vùng giàu có nhất nước về cây ăn quả, về thủy hải sản. Ba nền văn minh về nông nghiệp của Nam Bộ chủ yếu cũng xuất hiện phần lớn ở vùng này. Đó là văn minh lúa nước, văn minh miệt vườn và văn minh kênh rạch Nam Bộ.

Khu vực Mang Khảm - Hà Tiên - Phú Quốc - Rạch Giá - Cà Mau còn gọi là vùng Hương Úc, Trảng Ké, Cần Bột, Gi Khê... Vùng này do quân lính và gia nhân cánh Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ khai khẩn và phát triển thành một thương cảng phồn vinh rất sớm. Phần nông nghiệp chỉ là thứ yếu của một số thổ dân và người Việt di cư đến đây từ trước. Còn cánh quân người Hoa của Mạc Cửu chỉ lo buôn bán và mở sòng bạc.

Nhìn chung lại, triều Nguyễn có công khai phá đất hoang, đào kênh mương, phát triển nông nghiệp ở vùng đất Nam Bộ của họ, mặc dù người thực hiện công việc này chủ yếu là nhân dân lao động, là di dân người Việt dưới sự điều hành trực tiếp của một số đại thần tài năng trung thực hết lòng vì dân vì nước như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn Thoại, Trần Đình Túc... Trong đó việc cần đặc biệt nhất đáng nhấn mạnh là việc tổ chức đo đạc, vẽ lại bản đồ, lên sổ địa bạ đầy đủ, rõ ràng đất khai phá được ở Nam Bộ. Có thể nói đây là một công lao to lớn đối với việc mở mang khai khẩn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế văn hóa Việt Nam nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng.

Ngay trong những sổ địa bạ lúc bấy giờ, các vua triều Nguyễn đã sớm xác định chủ quyền đất đai của nước ta tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc. Trường Sa đã được ghi rõ thuộc địa bộ Gia Định Thành.

Nam Kỳ Lục Tỉnh

Gia Ðịnh, Ðịnh Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên thuộc Lục Tỉnh Nam Kỳ ngày xưa (được vua Minh Mạng đổi Trấn thành Tỉnh vào năm Tân Mão 183. Theo hòa ước Pháp - Việt được ký vào năm Nhâm Tuất 1862, giữa thiếu tướng Bonard (phía Pháp) với Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp (phía Việt Nam), theo đó thì triều đình Huế phải nhường cho Pháp 3 tỉnh thuộc Lục Tỉnh Nam Kỳ là: Biên Hòa, Gia Ðịnh và Ðịnh Tường. Ba tỉnh còn lại là An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên đã bị Pháp lấy theo hòa ước Pháp - Việt được ký kết vào năm Giáp Tuất 1874 giữa thiếu tướng hải quân Dupré (phía Pháp) với Lê Tuấn và Lâm Duy Tiếp (phía Việt Nam). Pháp đã chia 6 tỉnh Nam kỳ ra làm 20 tỉnh và Gia Ðịnh có số thứ tự là 1; sau đó thành 21 tỉnh, khi Vũng Tàu tách ra khỏi Bà Rịa.

Khi nói đến vùng đất Nam Kỳ, là phải nhớ đến công ơn khai thác bờ cõi của các đời Chúa Nguyễn. Nguyễn Hoàng (1524 - 1613, tục gọi là Chúa Tiên) người huyện Tống Sơn, thuộc tỉnh Thanh Hóa (Trung phần), là thứ nam của An Thành Hầu Nguyễn Kim, làm đến chức Ðoàn Quận Công đời vua Lê Anh Tông (1556 - 1573).

Khi thân phụ hàng tướng Dương Chấp Nhất và sau đó bị đánh thuốc độc chết, rồi đến người anh cả là Nguyễn Uông bị anh rể là Trịnh Kiểm (lấy chị ruột tên là Ngọc Bảo) ám hại, chỉ vì sợ bị họ Nguyễn tranh mất quyền. Nguyễn Hoàng lo sợ sớm muộn gì cũng sẽ bị Trịnh Kiểm ám hại, nên Ông tìm cách nói với chị là Ngọc Bảo xin với chồng, cho phép ông vào trấn giữ ở phía Nam.

Vào năm Mậu Ngọ 1558, Ông được đề cử vào trấn đất Thuận Hóa. Khi đi, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã mang theo gần hết bà con họ hàng ở huyện Tống Sơn. Cùng đi còn có thêm số quân lính và vợ con, dân chúng ở vùng Bắc Bố Chính cũng tình nguyện theo Chúa Tiên vào Nam để khai khẩn đất đai và sinh cơ lập nghiệp.

Năm Nhâm Thân 1592, ông đưa quân ra Bắc rồng rả suốt 8 năm, giúp Trịnh Tùng chống lại tướng Lập Bạo của nhà Mạc ở làng Hồ Xá và Lang Uyển, thuộc Quảng Trị. Ðến Năm 1600 Ông trở về Thuận Hóa, lập ra nghiệp nhà Nguyễn, khởi đầu cho cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn.

Vào Năm Tân Hợi 1611, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã lấy phần đất của Chiêm Thành lập ra phủ Phú Yên, rồi chia ra làm hai huyện Ðồng Xuân và Tuyên Hòa. Ông mất năm Quý Sửu 1613, thọ 89 tuổi; được truy tôn là Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Ðế.

Nhân cơ vua nước Chiêm Thành cho quân sang quấy nhiễu Phú Yên, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (hay là Nguyễn Phước Tần 1619 - 1687, vị Chúa thứ 4 đời nhà Nguyễn) bèn sai quân đi dẹp loạn. Vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm phải đầu hàng. Ở phía Nam, Chúa Hiền lại lấy thêm được phần đất của Chiêm Thành, từ Phan Rang trở ra làm Thái Ninh phủ, sau đổi thành phủ Diên Khánh (tức Khánh Hòa ngày nay) và đặt dinh Thái Khang để coi việc cai trị.

Vào năm Kỷ Mùi 1679, củng với nhóm người Việt di dân vào Nam lập nghiệp, còn có hai nhóm người Trung Hoa khoảng 3.000 quan quân và 50 chiến thuyền ở Quảng Tây. Vì muốn tỏ lòng trung thành với nhà Minh, không chịu hàng phục nhà Thanh, nên họ xin được gia nhập làm dân nước Nam. Trong nhóm người Hoa có hai vị Thiền Sư nổi tiếng là Quả Bổn và Nguyên Thiêu.

Nhân có ý định muốn khai khẩn thêm phần đất của Chân Lạp, Chúa Hiền đã cho những người Hoa vào những vùng đất ở Ðông Phố (tức Gia Ðịnh), ở Lộc Dã và Ba Lân (tức Biên Hòa thuộc Ðồng Nai), ở đất Mỹ Tho (trước thuộc tỉnh Ðịnh Tường, nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Chúa Hiền mất năm Ðinh Mão 1687, thọ 68 tuổi; được truy tôn là Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng Ðế.

Nguyễn Phúc Chu (hay Nguyễn Phước Chu 1674 - 1725, vị Chúa thứ 6 của đời Nguyễn), nối nghiệp Chúa Nguyễn Phúc Trăn từ năm Tân Mùi 1691, người đương thời còn gọi là Quốc Chúa. Ngoài việc lo sửa sang chánh trị, mở các khoa thi để kén chọn nhân tài, Quốc Chúa còn có công quan trọng trong việc mở rộng thêm bờ cõi phía Nam cho nước ta.

Năm Quí Dậu 1693, nhân cớ vua nước Chiêm Thành bỏ lệ tống cống cho nước ta, Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan Tổng Binh là Nguyễn Hữu Kính mang quân đi chinh phạt. Vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh bị bắt, phần đất cuối cùng của nước Chiêm Thành bị chiếm và được đổi thành Thuận phủ. năm Gáp Tuất 1694 đổi Thuận Phủ làm Thận Thành trấn và đặt ra phủ Bình Thuận (Phan Thiết) gồm có huyện Yên Phúc (Phan Rí) và huyện Hòa Ða (Phan Rang). Kể từ đấy, nước Chiêm Thành xem như đã hoàn toàn bị thôn tính.

Ðến năm Mậu Dần 1698, Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược đất Chiêm Thành. Lấy xứ Ðồng Nai làm huyện Phúc Long, xứ Sài Côn (sau này là Sài Gòn) làm huyện Tân Bình; đặt Trấn Biên dinh (tức Biên Hòa ngày nay) và Phiên Trấn dinh (tức Ðịa Dinh). Những lưu dân từ Quảng Bình trở vào, được đưa đến vùng đất mới để khai khẩn đất đai, sinh cơ lập nghiệp. Quốc Chúa có được 146 người con, mất năm Ất Tỵ 1725, thọ 51 tuổi; được truy tôn là Hiếu Tôn Ninh Hoàng Ðế.

Chúa Nguyễn Phúc Trú (hay Nguyễn Phước Trú 1685 - 1738, vị Chúa thứ 7 đời nhà Nguyễn, kế nghiệp Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu) đã tiếp tục mở mang thêm vùng đất Gia Ðịnh và bảo hộ đất Chân lạp: Chúa nguyễn Phúc Trú mất năm Mậu Ngọ, thọ 43 tuổi; được truy tôn là Túc Tôn Hiếu Ninh Hoàng Ðế.

Vào năm Ðinh Sửu 1759, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên chết, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (hay là Nguyễn Phước Khoát, vị Chúa thứ 8 đời nhà Nguyễn, kế nghiệp Chúa Nguyễn Phúc Trú) đã che chở và giúp đỡ cho Nặc Tôn lên làm vua. Nặc Tôn đã dâng đất Tầm Phong Long (hiện là đất Vĩnh Long, Sa Ðéc, Châu Ðốc) cho Võ Vương để tạ ơn. Nặc Tôn còn trao cho tướng Mạc Thiên Tứ (người mà trước kia đã từng cầm quân giúp cho Nặc Tôn) 5 phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, sài Mạt và Linh Quỳnh. Nhưng sau đó mạc Tứ Thiên đã dâng lại cho Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát và sau đó đã được sáp nhập vào trấn Hà Tiên. Võ Vương mất năm Ất Dậu 1765, được truy tôn là Thế Tôn Hiếu Võ Hoàng Ðế.

Thời đó, đất đai vùng Lục tỉnh Nam kỳ còn hoang dã, khắp nơi chỗ nào cũng có rất niều thú dữ, nhưng rất là phì nhiêu, khí hậu thuận lợi cho những người di dân lập nghiệp. Thiên nhiên đã ban bố cho những vùng đất đai ở miền Nam rất là phì nhiêu, không những chỉ trồng được có nhiều thứ lúa gạo ngon, mà người nông dân còn trồng ra được rất nhiều thứ trái cây ngon, ngọt.

Khi những bàn chân khai khẩn đất hoang kéo đến vùng Lục tỉnh nam kỳ, họ đã dùng hết nghị lực, cùng với tính cần cừu nhẫn nại sẵn có, để tận dụng sự ưu đãi của thiên nhiên và họ đã tìm được hạnh phúc ấm no. Có rất nhiều bài ca dao đã nói lên cuộc sống rất phồn thịnh của những lưu dân đến sinh cư lập nghiệp nơi vùng đất mới.
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...