1- Tạ ơn Đức Chúa Trời khi hanh
thông:
Lễ Tạ Ơn bắt nguồn từ di dân âu Châu sang Tân
Thế Giới (Châu Mỹ) lập nghiệp. Đời sống củahọ trên đất mới rất khổ nhọc vì thời
tiết, bệnh tật; đồng ruộng, nông trại, nhà cửaphải xây dựnglại từ đầu.Tuy vậy,
vào cuối mùa gặt hái,di dâncó một buổi lễ để cảm tạ Đức Chúa Trời vì những gì
họgặt hái được trong vụ mùa vừa qua.
Họ làm điều này hàng năm nhưng vẫn chưa chính
thức dành riêng ra một ngày đểtạ ơn Đức Chúa Trời cho đến năm1863.Vào năm
đó,trong khi nước Mỹ đang có nội chiến Nam Bắc, Tổng Thống Abraham Lincoln công
bố ngày thứ năm của tuần chót, của tháng 11 là ngày Lễ Tạ Ơn quốc gia, nghĩa là
toàn quốc phải nghỉ làm việc để kỹ niệm nó. Từ đó đến nay, hàng năm cứ đến ngày
đã định, toàn nước Hoa Kỳ nghĩ việc để tạ ơn Đức Chúa Trời vì những của cải vật
chất Ngài đã ban cho trong năm qua. Mặc dù ngày Lễ Tạ Ơn bắt nguồn trong đức tin
vào Đức Chúa Trời, càng ngày nó càng mất dần ý nghĩa;dần dần biến thànhmột ngày
"thương mãi" khi mọi người lợi dụng dịpgiá hạđể mua sắm. Sự biến chất của ngày
Lễ Tạ Ơn có thể do lòng con người đối với Đức Chúa Trời càng ngày càng nguội
lạnh; cũng có thể vì đất nước Mỹ là đất nước của di dân, mà có rất nhiều di dân
đến từ các nền văn hoá không biết đến Đức Chúa Trời, nên chẳng biết phải tạ ơn
ai.
Nhưng tại sao di dân âu
Châu thưở ban đầu lại tạ ơn Đức Chúa Trời?Chẳng phải họ đã đổ mồ hôi, nước mắt
và cả máu xương xuống trên Thế Giới Mới này để biến nó thành một đất nuớc giàu
có nhất thế giới ngày nay hay sao?Nếu có một Đấng Thượng Đế, tại saoNgài lại để
cho ho nói riêng và nhân loại đáng thương nói chung phải vật vả để sống còn?Bắc
Mỹ là mộtlục địaphì nhiêu mà con người phải vật vả dường ấy, thì đừng nói tới
nhữngnơi khác trên thế giới, nơi màthực phẩm làvật xa xí. Theo một tài liệu của
báo National Geographic, trên thế giới có đến gần một tỉngười không đủ chất dinh
dưỡng. Các nước nghèo đói nhất tọa lạc tại Phi Châu và á Châu.Tại những nơi này,
hình như con người không có khái niệm vềsự "tạ ơn Đức Chúa Trời."Như vậy, có
phải sự tạ ơn Đức Chúa Trời của di dân âu Châuđến từ "phú quí sinh lễ nghĩa" chứ
thực sựĐấng Thượng Đế không tồn tại? Nếu Ngài hiện hữu, tại sao loài người phải
đau khổ?
2- Các loại đau
khổ:
Có hai loại đau khổ: 1-Do
con người, và 2- Do thiên nhiên gây ra. Một người sống trong thế gian phải chịu
nhiều đau khổ gây ra từ quan hệ vợ -chồng, cha mẹ - con cái, đến hàng xóm, bà
con, bạn bè,kể cả từ người không quen biết, tới quan hệ xã hội hay giữa các quốc
gia với nhau.Hơn ai hết, người Việt Nam chúng ta chịu đau khổ loại 1 nhiều nhất.
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, không biết bao nhiêu nước mắt Việt Nam
đãđổ xuống vì mất mát trong những cuộc chiến tranh không do người Việt chủ
động.Trên mức độ cá nhân, một người "vô tội" đi dạo trên vỉa hèbị một người lái
xe say rượu chồm lên lề cán chết. Một em bé đang tập nói bị mẹ mìn bắt cóc...
Một người có thểchấp nhậnsự hiện hữu của Đức Chúa Trờivà sự hiện hữu của đau khổ
loại 1 cùng một lúc. Tình huống này có thể được giải thích rằng Đấng Thượng Đế
vô tình với nhân loại; Ngài để mặc người ác chém giết người lành; Ngài là Đấng
Toàn Năng, nhưng Ngài thiếu đi tình Yêu Thương cho nhân loại khốn cùng...
Nhưngđau khổ loại 2 mới thật sự là khó giải thích vìcon người không có quyền
chủđộng gì trên những thiên tai; và vì vậy, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về Đức
Chúa Trời, nếu Ngài thật sự hiện hữu. Nếu loài người là bé nhỏ, và Đức Chúa Trời
là Đấng ToànNăng, tại sao Ngài lại để chocon mất cha, vợ mất chồng trong
trậnSóng Thần tại Indonesia vào năm 2004? Giữa Đức Chúa Trời
và loài người, ai có khảnăng ngăn chận trận sống thầnnày? Tại sao Ngài lại tàn
ác để cho hàng trăm ngàn người vô tội (kể cả trẻ em) phải chết oan? Như vậy, một
làĐấng Thượng Đế không Hiện Hữu; hai là nếu Ngài có thật sự Hiện Hữu, thìNgài
không Toàn Năngnên không giúp được gì chonhân loại;hoặc ba, Ngài Hiện Hữu và
Toàn Năng nhưngkhông Yêu Thương nên để mặc loài người trong biển khổ.Chỉ cần một
trong ba tình huống này hiện diện, Đức Chúa Trời hoặc không hiện hữu, hoặc
khôngđáng đểloài người phải tạ ơn như những di dân âu Châu trên đây.Hình như sự
hiện hữu của Đức Chúa Trời cùng vớihai thuộc tính của Ngài: Toàn Năng và Yêu
Thương không thể giải thích được thực tế đau khổ của loài người. Đây là một
nghịch lý chỉ có thể giải thích được khi hiểu loài người gì và Đức Chúa Trời là
ai.
Có người hoài nghi trắc
trớ rằng nếu Đức Chúa Trời toàn năng thì hãy tạo ra một cục đá nặng đến nỗi
chính Ngài nhấc lên không nỗi. Người đócó mộtngầm ý: Nếu Đức Chúa Trời không tạo
được cục đá đó, thì Ngài bất lực. Nếu Ngài tạo rađược cụcđáđó, thì Ngài cũng bất
lực luôn vì chính Ngài nhất lên không nỗi. Giải đáp cho nghịch lý "cục đá của
Đức Chúa Trời này" nằm chính trong người nêu lên. Loàingười là sinh vật mềm yếu
nhưng có ý chírất manh để lựa chọn.Chúng tamột mặt nhận biết mình là loài yếu
đuối, mặt khác muốn mình làm chủ lấy mình và vũ trụ. Để thỏa mãn hai điều
trên,nhân loạimớisáng tạo rahai thuyết tiến hoá và nhiều thuyết khác tương
tự.Một, thuyết tiến hoá thể chất (tức là thuyết tiến hóaDarwin):các loài,trong
đó có loài người, bắt đầu từ sinh vật thấp hơn, càng ngày càngtrở nên tốt đẹp
hơn nhờ vào quá trình chọn lọctự nhiên trên những thay đổi sinh học nhỏ. Theo
thời gian, các thay đổi nhỏ này tích lũy thành những thay đổi lớn để tạo ra loài
mới, phức tạp hơn, thông minh hơn loài cũ. Hai, thuyết tiến hoá "tâm linh": nhờ
tu hành, con người càng ngày càng đạo đức hơn, quyền phép hơnvà từ từsẽ thần
thông quảng đại.Theo hai thuyết "tiến hoá" nàyloài người không cần đến Đức Chúa
Trời: con người tự nhiên mà có, rồi một ngày thay đổi một chút sẽ trở nên một
đấng nào đó quyền phép như Đức Chúa Trời. Nói một cách khác, loài người, do có ý
chí mạnh, thay vì chọn Đức Chúa Trời để thờ phượng, đã nghĩ ra một cách để lật
đổ Ngài.Đức Chúa Trời không tạo ra một cụcđá mà chính Ngài không nhấc nỗi, nhưng
Ngài đã tạo ra một "cụcđá" yếuđuối về thể chất là loài người, nhưng mạnh vềý
chí, mạnhđến nỗi có thể nỗi loạn chống lại Ngài."Cụcđá củaĐức Chúa Trời" chính
là người nêu lên nghịch lýđề cập trên.
Đức Chúa Trời "nhấc cục đá
của Ngài" như thế nào?
Thánh kinh cho biết rằng
khi loài người nỗi loạn với Đức Chúa Trời, tức là phạm tội cùng với Ngài, có ba
quan hệ bị đổ vỡ: 1- Quan hệ giữa người với Đức Chúa Trời, 2- Quan hệ giữangười
với người, và 3-Quan hệ giữa người với thiên nhiên; trong đó, quan hệ giữa người
và Đức Chúa Trời là chính. Vì quan hệchính đã bị vỡ, hai quan hệ thứ yếu (2 và
3) kia bị đổ vỡ theo.Điều này giải thích tại sao người này làm người khác đau
khổ, vô tình hay hữu ý. Điều này cũng giải thích tại sao loài người phải lao
nhọc mới có ăn (vì vậy mà di dân từ âu Châu cảm tạ Đức Chúa Trời vì thu hoạch
của họ); tại sao biển cả lại nổi sống cồn nuốt chững hàng trăm ngàn người; tại
sao núi lại phải phun lữa chôn sống cả một thành phố; tại sao đất lại phải nứt
ra để hút nhà cửa, công trình, v.v.vào lòng,v.v. Vì là phụ, nên sự phục hồi quan
hệ 2 và 3 phải theo sau sự phục hồi quan hệ 1, tức là sự phục hồi quan hệ
giữaĐức Chúa Trời và loài người. Vì Ngài là Đấng Toàn Năng, có nghĩa làNgài làm
theochương trìnhNgài lập ra mà không ai có thểáp lực để thay đổi, nên Ngài không
phản ứng. Chương trình đời đời của Ngài không bị ảnh hưởng do sự lựa chọn của
một cá nhân nào cả. Toàn bộ nhân và quả, suy nghĩ, hànhđộng, v.v.của tất cả cá
nhân trên thế gian từ cổ đại đến tương lai đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Sự
lựa chọn giữa thiện và ác của một cá nhân quyết định sự sống còn của người ấy,
chứ chương trình của Đức Chúa Trời vẫn đời đời không thay đổi. Ngài không phản
ứng vì Ngài Toàn Năng; Ngài không nhanh nhẫu trong việc xử phạt vì tình Yêu
Thương Ngài muốn cho loài người thêm cơ hội. Do vậy, nhiều khi chúng ta thấy bất
công và đau khổ lan tràn mà hình nhưông Trời vẫn im lặng [1]. Cũng chính vì Ngài là Đấng Yêu
Thương nên Ngài có chương trình cứu rỗi qua sự khổ nạn của Chúa Jesus trên thập
giá [2], để hể ai tiếp nhận Ngài là Cứu Chúa
Duy Nhất, thì sẽ được cứu rỗi khỏi sự chết đời đời.Chính Đức Chúa Jesus cũng
phải chịu chung sự đau khổ mà loài người phải chịu do hậu quả của tội lỗi, mà
còn hơn thế nữa. Nhưng Ngài chấp nhận sự đau khổ đó là giải phápcủa đời mình, mà
đi xuyên qua nó một cách vâng phục Đức Chúa Cha. Thánh Kinh dạy rằng tội lỗi là
sự bất tuân Đức Chúa Trời. Chính vì sự bất tuân của tổ phụ loài người là A-đam
mà cả nhân loại phải đau khổ, thì chính sự tuân phục của một người - Đức Chúa
Jesus -cho đến chết,đểnhiều người được cứu. Khi đọc tới đây sẽ có người nói thầm
rằng chết là thoát kiếp, đâu còn biết đau khổ là gì. Họnghĩ vậy vì họ không biết
đến sự đau khổ khichết mà không biếtđến Chúa. Đau khổchi phối cảngười tin
Chúalẫn ngườichưa tin Chúa, không chừa một ai. Nhưngđối với người tin Chúa,
chúng tachấp nhận đau khổ là một hiện thực và bằng lòng đixuyên quanóvới niềm
xác tín rằng khi chúng ta bước chân vào cõi vĩnh cửu thì đau khổ và sự chết
không còn nữa. Trong khi đó ngườikhông tin Chúa phải "trùm chăn" tự nhủ rằng đau
khổ chỉ là ảo giác.Đó chính là niềmđau khổ lớn hơn cả sựđau khổmà cả người tin
lẫn người chưa tin phải chịu chung trong thế gian. Đau khổ trong đức tin Cơ Đốc
nhân không phải là mục tiêu tối hậu phải giải quyết, mà chính là mối quan hệ
giữa Đức Chúa Trời và người.
4- Tạ ơn Đức Chúa
Trời trong đau khổ:
ýchỉ củaĐức Chúa
Trờilàloài người phảiđược sống hạnh phúc vĩnh hằng, nhưngvì mụcđíchđờiđời, Ngài
vẫn đểđau khổ trên mặtđấtđể thức tỉnh loài người. Chính Ngài cũng đau khổ khi
loài người phạm tội, nhưng vìlàĐấng Công Chính, Ngài phải thi hành án phạtkhi
loài ngườiphạm tội. Thánh kinh dạy rằng hễ phạm tội thì phải chết (tâm linh).
Nhưng loài người không cần phải chết đời đời trong hoả ngục vì Đức Chúa Jesus đã
chết thế cho nhân loại trên thập giá rồi.Sự cứu rỗi của một cá nhân bắt nguồn từ
sự tiếp nhận sự khổ nạn của Đức Chúa Jesus như là giải pháp duy nhất cho đời
mình để mình được đi qua sự sống từ sự chết.
ý chícủa Đức Chúa Trời
phải thắng ý chí của loài người. Bởi vậy khi Đức Chúa Jesus sắp bị khổ hình,
Ngài mới cầu nguyện với Đức Chúa Cha rằng: "Nếu có thể được, xin Cha cất
chén đắng này khỏi con, không theo ý con, mà là ý Cha." Sự đau khổ mà Đức
Chúa Jesus phải chịu không gây rado sự va chạm giữa ý chí của Ngài và ý chí của
Đức Chúa Cha (vì Ngài giáng thế chỉ để chịu chết thế cho nhân loại) nhưng là do
tội lỗi gây ra bởi ý chí chống nghịch Thiên Chúa của loài người. Vì loài người
chống nghịch với Đức Chúa Trời nên mới có đau khổ; nhưng cảm tạ Đức Chúa Trời vì
tình yêu thương của Ngài thắng cả đau khổ và sự chết.
Sách Nhã Ca trong Thánh
Kinh dạy rằng tình yêu mạnh như sự chết (và hình thức nhẹ của nó là đau khổ). Vì
vậy, đau khổ (và sự chết) là thử nghiệm hữu hiệu nhất cho tình yêu giữa người và
Thiên Chúa.Đau khổ chi phối cả ngườitin Chúa lẫn không tin Chúa, nhưngngười tin
Chúatheo gươngĐức Chúa Jesus và các sứ đồ của Ngài cảm tạ Đức Chúa Cha ngaycả
trong hoạn nạn.Đau khổ là khắc tinh choý chí chống nghịch của người không tin
Chúa, nhưng là cơ hộiđể cảm tạ Chúa của những ngườiđầu phục Chúa vìchúng
tabiếtđược - quađức tin - mọi việc xẩy rađều cóích cho cho người yêu mến
Ngài.Đối với nhân loại nói chung, đau khổ chết chóc làm nổi bật lên những tấm
gương thật sáng: Trong sự đói kém, nỗi bật lên những gương hy sinh của những bà
mẹ nhịn ăn cho con; trên chiến trường máu lữa, nỗi bật lên nhữnganh hùng hy sinh
tánh mạng mìnhđể cứuđồngđội.Trong sựrên xiết quằng quại của cả vũ trụ này vẫn
nổi bật lên những tấm tìnhyêu sáng loáng đối với Thiên Chúa của những con người
tuânphục Ngài cho đến chết.
5- Kết
luận:
Đức Chúa Trời tạo ra loài
người mềm yếu về thể chất, nhưng có ý chí rất mạnh để lựa chọn, mạnh đến đổi làm
loạn chống nghịch với Ngài. Sự bất tuân của loài người là tội lỗi; hậu quả của
tội lỗi là sự chết (và hình thức nhẹ) là đau khổ.Đau khổ là khắc tinhcho ý chí
củaloài ngườimà Đức Chúa Trời dùng để thử nghiệm tình yêu của loài người với
Ngài. Sự đau khổchia nhân loại ra làm hai:Người tin Chúa cảm tạ Ngài trong hanh
thông và cả trong hoạn nạn, và được sự sống đời đời; người chống nghịch
Chúarủaxả Ngài và hư mấtđờiđời. Cùng một hoàn cảnhnhưng hậu quảđờiđời khác nhau
do sự thái độ và lựa chọn khác nhau.
Lê Anh
Huy