CHÚNG TA NHẬN ÐƯỢC KINH THÁNH THẾ
NÀO?
Cấu Tạo Tân
Ước
Kinh điển Tân Ước.-- Theo nguyên văn, chữ "canon" (Kinh điển) nghĩa
là "cây gậy" hoặc "cây đo." Theo cách dùng trong đạo Ðấng Christ, nó có nghĩa
là: "sách chép qui tắc của đức tin," nghĩa là toàn thể các sách nguyên văn và có
thẩm quyền, hợp thành Lời do Ðức Chúa Trời soi dẫn. Các sách của "Kinh điển Tân
Ước " chính là những quyển được toàn thể Hội Thánh nhìn nhận là tác phẩm đích
thực và chân chánh của các Sứ đồ.
Kinh Thánh Cựu Ước.-- Ðương thời Ðấng Christ, trong văn chương của dân
Do-thái có một bộ sách gọi là "Kinh Thánh," và bây giờ gọi là "Cựu Ước," mà nhân
dân kể là phát xuất từ nơi Ðức Chúa Trời. Họ gọi bộ sách ấy là Lời Ðức Chúa
Trời. Chính Ðức Chúa Jêsus cũng thừa nhận bộ sách ấy như vậy. Bộ sách ấy
được đọc trước công chúng và được đem ra dạy thường xuyên trong các nhà hội của
dân Do-thái.
Hội Thánh Ðấng Christ, ngay
từ lúc đầu, đã công nhận Kinh Thánh của người Do- thái là Lời Ðức Chúa Trời, và
trong các Hội nghị, đã dành cho Kinh Thánh ấy địa vị vốn có trong các nhà hội.
Khi những tác phẩm của các Sứ đồ xuất hiện, thì đã được thêm vào Kinh Thánh của
người Do-thái và cũng được coi là thánh như vậy. Mỗi chi hội chẳng những muốn có
tác phẩm đã gởi cho mình, song cũng muốn có những tác phẩm đã gởi cho các chi
hội khác.
Khởi đầu của Kinh điển Tân
Ước.-- Chính trong Tân Ước có nhiều chỗ
ngụ ý rằng đang khi các Sứ đồ còn sống và do chính họ giám thị, người ta đã bắt
đầu sưu tầm tác phẩm của họ cho các chi hội và đem đặt ngang hàng với Cựu Ước,
kể là Lời do Ðức Chúa Trời soi dẫn.
Phao-lô tự nhận rằng sự dạy dỗ của ông do Ðức Chúa Trời
soi dẫn (I Cô-rinh-tô 2:7-13; 14:37; I Tê-sa-lô-ni-ca 2:13).
Giăng cũng tự nhận như vậy cho sách Khải Huyền (Khải
Huyền 1:2).
Phao-lô nhất định rằng thơ tín của ông phải được đọc
trong các chi hội (Cô-lô-se 4:16; I Tê-sa-lô-ni-ca 5:27; II Tê-sa-lô-ni-ca
2:15).
Phi-e-rơ gởi thơ tín hầu cho "sau khi" ông "đi," các chi
hội "có thể hằng nhớ điều" ông "đã nói" (II Phi-e-rơ 1:15; 3:1-2).
Phao-lô trưng dẫn một quyển sách của Tân Ước và gọi là
"Kinh Thánh" (I Ti-mô-thê 5:18) - "Người làm công thì đáng được tiền công mình."
Ta không thấy câu nầy ở sách nào trong Kinh Thánh, trừ ra ở Ma-thi-ơ 10:10 và
Lu-ca 10:7. Ðó là bằng cớ tỏ ra rằng sách Ma-thi-ơ hoặc sách Lu-ca đã có khi
Phao-lô viết thơ I Ti-mô-thê và đã được kể là "Kinh Thánh."
Phi-e-rơ sắp thơ tín của Phao-lô chung hàng với "các
phần Kinh Thánh khác" (II Phi-e-rơ 3:15, 16).
Chúng ta không biết các Sứ đồ đã nhìn nhận tới mức nào
rằng tác phẩm của họ sẽ trở thành một phần của Lời Ðức Chúa Trời được chép ra
cho các thời đại tương lai. Họ đã viết nhiều thơ tín, và trong trí họ nghĩ đến
những nhu cầu tức thời, chớ ít biết số phận các thơ tín ấy sẽ ra sao. Chúng tôi
tin rằng chính Ðức Chúa Trời đã theo dõi vấn đề nầy, và theo đường lối riêng của
Ngài, đã chọn định tác phẩm nào cần được bảo tồn.
Các sác Tân Ước đã xuất hiện lần đầu tiên ở
đâu? Ma-thi-ơ, Gia-cơ, Hê-bơ-rơ (?) ở
xứ Pa-lét-tin; Giăng, Ga-la-ti, Ê-phê-sô, Cô-lô-se, I và II Ti-mô-thê ,
Phi-lê-môn, I và II Phi-e-rơ , I, II và III Giăng, Giu-đe, Khải Huyền ở
Tiểu-Á-tế-á; I và II Cô-rinh-tô , Phi-líp, I và II Tê-sa-lô-ni-ca, Lu-ca (?) ở
Hy-lạp ; Tít ở Cơ-rết; Mác, Sứ đồ, Rô-ma tại kinh thành La-mã.
Pa-lét-tin, Tiểu-Á-tế-á, Hy-lạp và La-mã cách xa nhau
nhiều lắm. Các sách của Cựu Ước đã phát xuất trong cương giới một xứ nhỏ bé; còn
các sách của Tân Ước phát xuất tại những xứ cách xa nhau nhiều lắm.
Các bộ sách đầu tiên không đầy
đủ.-- Thế giới thời đó không có hỏa xa,
phi cơ và máy thâu, phát thanh như thế giới ngày nay. Sự du hành và giao thông
rất chậm chạp và nguy hiểm. Hành trình mà thời nay chỉ mất mấy giờ, thì thời đó
phải mất mấy tháng hoặc mấy năm. Thời ấy chưa có nghề in, và việc chép bằng tay
rất chậm chạp, nhọc nhằn. Hơn nữa, đương thời ấy có sự bắt bớ, nên các tác phẩm
quí giá của đạo Ðấng Christ phải được cất kỹ.
Mãi tới đời trị vì của Constantin, mới có các
Giáo hội nghị và Hội đồng để các tín đồ ở các phương xa họp lại mà so sánh lời
chú giải những tác phẩm họ có trong tay. Như vậy, lẽ tự nhiên, các bộ sách Tân
Ước lâu đời nhứt khác nhau từ miền nọ đến miền kia, và phải mất nhiều thì giờ
mới đi đến chỗ đồng quan điểm nhất định những sách nào thật thuộc về Tân
Ước.
Các sách Tân Ước giả mạo.-- Ngoài các sách thuộc về "Kinh điển" Tân Ước, còn có
nhiều sách khác, vừa tốt, vừa giả, mà ta sẽ nhận thấy trong những trang sau đây.
Có sách hay và quí giá đến nỗi trải một thời gian, ở một vài miền, nó được coi
là Kinh Thánh; có sách lại hoàn toàn giả mạo Tiêu chuẩn duy nhất để phán đoán
một quyển sách trước khi tiếp nhận nó là: Nó có thật do các Sứ đồ trứ tác chăng?
Ðiều tra như vậy không phải trong trường hợp nào cũng dễ dàng đâu, nhứt là đối
với những sách ít ai biết và phát xuất tại một miền xa xôi.
Lời làm chứng lâu đời nhứt về các sách Tân
Ước.-- Ngày nay chỉ có ít sách của các
tín đồ còn sống đương thời đó, khi các Sứ đồ đã qua đời rồi; ấy vì vật liệu dùng
để viết rất mau hư, lại cũng vì thời đó có sự bắt bớ Hội Thánh và tiêu diệt các
tác phẩm của đạo Ðấng Christ. Nhưng dầu ít, nó cũng làm chứng quả quyết rằng
đương thời ấy, có một bộ tác phẩm đầy đủ thẩm quyền mà tín đồ Ðấng Christ kể là
"Kinh Thánh." Các sách ấy trưng dẫn hoặc tham chiếu rất nhiều câu trong bộ tác
phẩm gọi là "Kinh Thánh" đó.
Clément ở La-mã, trong thơ tín gởi cho người Cô-rinh-tô (95 S.C.), có
trưng dẫn hoặc tham chiếu các sách Ma-thi-ơ, Lu-ca, Rô-ma, I và II Cô-rinh-tô ,
Hê-bơ-rơ, I Ti-mô-thê, I Phi-e-rơ.
Polycarpe, trong thơ tín
gởi cho người Phi-líp (khoảng 110 S.C.), có trưng dẫn thơ Phi-líp, và chép lại
nhiều câu trong 9 thơ tín khác của Phao-lô và trong thơ I Phi-e-rơ. Ông nói
rằng:"Tôi có nhận được thơ của anh em và của Ignace gởi đến. Tôi sẽ gởi
thơ của anh em đi Sy-ri, theo như anh em đã yêu cầu; tôi cũng gởi thư của
Ignace cho anh em, cùng với mấy bức thơ khác, và thơ nầy của chính tôi."
Lời nầy tỏ ra rằng đương thời Polycarpe, các chi hội đã bắt đầu thâu thập
những tác phẩm của đạo Ðấng Christ.
Ignace, trong bảy bức thơ, viết khoảng 110 S.C., đang khi đi
đường từ An-ti-ốt đến La-mã để chịu tuận đạo, có trưng dẫn sách Ma-thi-ơ, I
Phi-e-rơ, I Giăng, và 9 thơ tín của Phao-lô. Các bức thơ của ông có in dấu ba
sách Tin lành khác.
Papias (70 - 155 S.C.), một môn đệ của Sứ đồ Giăng, có viết
sách nhan đề là: "Giải thích các bài giảng của Chúa," trong đó ông trưng dẫn
sách Giăng và chép những truyền thoại về sách Ma-thi-ơ cùng sách
Mác.
Quyển "Didache," viết khoảng năm 80 và 120 S.C., trưng dẫn sách Ma-thi-ơ
22 lần, tham chiếu các sách Lu-ca, Giăng, Sứ đồ, Rô-ma, I và II Tê-sa-lô-ni-ca,
I Phi-e-rơ; cũng nói "sách Tin lành" là một tài liệu đã được chép
ra.
Thơ tín của Ba-na-ba viết khoảng năm 90 và 120 S.C., có trưng dẫn các sách
Ma-thi-ơ, Giăng, Công-vụ các Sứ đồ, II Phi-e-rơ, và dùng mấy chữ: "Có lời chép
rằng..." Ðó là một cách nói thường chỉ áp dụng riêng cho Kinh
Thánh.
"Người chăn chiên của
Hermas," viết khoảng 100 hoặc 140 S.C.,
là cuốn "Thiên lộ lịch trình" của Hội Thánh thời xưa; có trưng dẫn thơ Gia-cơ và
rất nhiều lần tham chiếu các sách khác của Tân Ước.
Tatien,
khoảng 160 S.C., làm một bản "Hòa hiệp Bốn Sách Tin Lành," nhan đề là:
"Diatessaron." Ðó là bằng cớ tỏ ra rằng bốn sách Tin Lành, và chỉ bốn
thôi, thường được các chi hội nhìn nhận.
Justin Martyr (Tuận đạo), sanh ra khoảng năm Sứ đồ Giăng qua
đời, trong sách "Biện giải" viết khoảng 140 S.C., có nói đến sách Khải Huyền và
tỏ ra có biết sách Công-vụ các Sứ đồ và 8 thơ tín. Ông gọi các sách Tin lành là
"Bút ký của các Sứ đồ," và nói rằng người ta đọc nó luân phiên với các sách
"tiên tri" trong những cuộc nhóm họp của tín đồ Ðấng Christ.
Basilide, một tay theo tà giáo thuộc phái duy tri
(Gnostique), đã giảng dạy tại thành Alexandrie dưới đời trị vị của
Hadrien (117-138), và đã tự nhận là biết những truyền thoại bí mật lưu
truyền từ đời các Sứ đồ. Trong khi viết sách để cố gắng làm sai lệch giáo lý của
Ðấng Christ mà ai nấy đều công nhận, ông đã trưng dẫn các sách Ma-thi-ơ, Lu-ca,
Giăng, Rô-ma, I Cô-rinh-tô, Ê-phê-sô, Cô-lô-se mà người ta đã nhìn nhận là Kinh
Thánh của đạo Ðấng Christ.
Marion, một
tay khác theo tà giáo, khoảng 140 S.C., để ủng hộ tà giáo của mình, đã tự đặt ra
một kinh điển gồm các sách Lu-ca, Rô-ma, I và II Cô-rinh-tô , Ga-la-ti,
Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se, I và II Tê-sa-lô-ni-ca, Phi-lê-môn.
Irénée (130-200 S.C.), một môn đệ của Polycarpe, trưng
dẫn hầu hết các sách của Tân Ước và gọi là "Kinh Thánh." Ðương thời ấy, các sách
của Tân Ước được gọi là "Tin Lành và các Sứ đồ," cũng như các sách của Cựu Ước
được gọi là "Luật pháp và các tiên tri."
Tertullien (160-220 S.C.), ở Carthage, sống đương thời còn
nguyên bản thảo của các thơ tín; ông gọi Kinh Thánh của đạo Ðấng Christ là "Tân
Ước" (danh hiệu nầy xuất hiện lần đầu tiên trong văn phẩm của một tác giả vô
danh khoảng 193 S.C.). Trong các tác phẩm của Tertullien còn đến ngày
nay, có trưng dẫn 1800 câu Tân Ước. Trong sách nhan đề: "Chống bọn tà giáo,"
Tertullien có viết:
"Nếu anh em muốn sử dụng tánh tọc mạch một cách hữu ích
cho vấn đề cứu rỗi linh hồn mình, thì nên đến thăm những nhà thờ của các Sứ đồ,
tại đó ghế của họ còn đặt nguyên chỗ cũ; tại đó, người ta đã đọc những thơ tín
chân chánh của họ, gợi lên tiếng nói và vẻ mặt của từng vị Sứ đồ. Anh em ở gần
A-chai chăng? Anh em có thể đi tới Cô-rinh-tô . Nếu anh em ở gần xứ Ma-xê-đoan,
thì có thể đi đến thành Phi-líp và Tê-sa-lô-ni-ca. Nếu anh em có thể đi đến xứ
A-si, thì ghé Ê-phê-sô được. Nếu anh em ở gần xứ Ý-đại-lợi, thì ghé thành La-mã
được.
Tân bản Muratorien, trứ tác tại La-mã, khoảng 170 S.C., trong có một bản
liệt kê các quyển gọi là "Kinh Thánh" của đạo Ðấng Christ. Nó bỏ sót các thơ
Hê-bơ-rơ, I và II Phi-e-rơ, Gia-cơ, nhưng thêm vào sách "Khôn ngoan" và sách
"Khải Huyền" của Phi-e-rơ.
Bản Syriaque cũ, trứ tác khoảng giữa thế kỷ thứ 2 S.C., bỏ sót các thơ
Gia-cơ, I và II Phi-e-rơ, I, II, và III Giăng, và sách Khải Huyền.
Bản La-tinh cũ, trứ tác khoảng giữa thế kỷ thứ 2 S.C., bỏ sót các thơ
Hê-bơ-rơ, Gia-cơ và II Phi-e-rơ.
Origène (185-254), ở thành Alexandrie, là một học giả
tin theo Ðấng Christ, đi rất nhiều, học rất cao, suốt đời chuyên chú nghiên cứu
Kinh Thánh. Ông viết rất nhiều, có khi dùng đến 20 thư ký một lúc. Trong những
tác phẩm của ông còn lại tới ngày nay, ta thấy trưng dẫn tới 2 phần 3 Tân Ước.
Ông nhìn nhận 27 quyển của Tân Ước như ta có ngày nay, mặc dầu ông không biết
chắc ai là tác giả thơ Hê-bơ-rơ, và tỏ ý nghi ngờ các thơ Gia-cơ, II Phi-e-rơ,
II và III Giăng.
Những sách nào hợp thành Tân
Ước? Do những đoạn dẫn chứng trên đây
và do lời trưng dẫn của Eusèbe, ta sẽ thấy rằng trong một thời gian, có
những ý kiến hơi khác nhau về sách nào được coi là thuộc về Kinh điển. Ðây, lý
do giản dị của tình trạng ấy: Vì cớ phương tiện giao thông chậm chạp trên lãnh
thổ bao la của đế quốc La-mã, và vì cớ cơn bắt bớ tàn ác kéo dài không dứt trong
300 năm, nên các chi hội không có lấy một cơ hội để thực hiện sự cố gắng khả
quan, công khai và hợp lý, mong đạt tới chỗ toàn thể đồng ý về những sách nào
thật có thẩm quyền của các Sứ đồ. Mãi tới đầu thế kỷ thứ 4, hoàng đế
Constantin ra chiếu chỉ khoan dung tín ngưỡng, thì sự cố gắng ấy mới thực
hiện được.
Còn những sách "khả nghi" thì
sao?-- Nó vốn không phải là "khả nghi"
ở những khu vực nó xuất hiện lần đầu tiên. Các nỗi khó khăn đương thời đó đã
ngăn trở, khiến nó không được nhiều người biết trong một thời gian. Nó chậm được
toàn thể tiếp nhận,-- đó là bằng cớ tỏ ra các chi hội rất thận trọng đối với
những kẻ phỉnh gạt.
Cấu Tạo Tân Ước
Eusèbe (264-340 S.C.), Giám mục tại thành Sê-sa-rê, chuyên
chép sử ký Hội Thánh, đã bị cầm tù, nhưng sống sót trong cơn bắt bớ tín đồ Ðấng
Christ dưới đời trị vì của Dioclétien. Cơn bắt bớ nầy là sự cố gắng sau
chót và tuyệt vọng của đế quốc La-mã để xóa bỏ Danh Ðấng Christ. Một mục đích
đặt biệt của nó là tiêu diệt hết Kinh Thánh của đạo Ðấng Christ. Trải qua 10
năm, Kinh Thánh đã bị các cán bộ của đế quốc La- mã săn bắt và bị thiêu đốt tại
những khu chợ công cộng. Trong những ngày khủng khiếp ấy, đối với tín đồ Ðấng
Christ, vấn đề những sách nào hợp thành Kinh Thánh không phải là chuyện chơi
đâu.
Eusèbe sống tới
đời trị vì của Constantin, là hoàng đế tiếp nhận đạo Ðấng Christ, đặt làm
tôn giáo của triều đình và đế quốc mình. Eusèbe trở thành trưởng ban cố
vấn tôn giáo của Constantin. Một hành động đầu tiên của Constantin
khi lên ngôi là ra lịnh chép NĂM CHụC KINH THÁNH cho các chi hội tại
Constantinople, do tay những ký lục tài khéo, trên giấy da bò non tốt
nhứt, và phải dùng xe ngựa của nhà vua mà chở từ Sê-sa-rê đến
Constantinople. Trong lịnh gởi cho Eusèbe, Constantin viết
rằng:
"Trẫm nghĩ nên chỉ thị cho ông khiến người ta chép 50
bản Kinh Thánh. Ông biết rằng sự cấp phát và sử dụng Kinh Thánh nầy là rất cần
thiết cho cuộc giáo huấn Hội Thánh . Vậy, phải chép trên giấy da tốt, viết rõ
ràng, dưới một hình thức tiện lợi, dễ đem theo, do tay của những ký lục hoàn
toàn thông thạo.. Chiếu theo thơ nầy, ông cũng có quyền dùng hai chiếc xe ngựa
công cộng để chở Kinh Thánh. Nhờ sắp đặt như vậy, sẽ có thể rất dễ dàng gởi các
bản Kinh Thánh đã sao cẩn thận đến cho Trẫm khám xét. Có thể giao công việc nầy
cho một viên chấp sự trong Hội Thánh của ông; khi tới đây, viên chấp sự ấy sẽ
biết Trẫm rộng rãi dường nào. Hỡi người anh em yêu dấu, nguyện Ðức Chúa Trời gìn
giữ ông!"
Tân Ước của Eusèbe gồm những sách nào? Ðúng là
những sách ngày nay hợp thành Tân Ước.
Nhờ dày công nghiên cứu, Eusèbe biết rõ những
sách nào đã được toàn thể Hội Thánh công nhận. Trong quyển "Sử ký Hội Thánh" do
ông trứ tác, ông nói đến bốn loại sách:
1.-- Những sách đã được toàn thể nhìn nhận.
2.-- Những sách "đang tranh luận": Gia-cơ, II Phi-e-rơ,
Giu-đe, II và III Giăng; những sách nầy dầu có gồm trong các bản Kinh Thánh của
ông, song bị một số người nghi ngờ.
3.-- Những sách "giả mạo," trong số đó ông có ghi sách
"Công vụ các sứ đồ" của Phao-lô, sách "người chăn chiên của Hermas," sách
"Khải Huyền" của Phi-e-rơ, "Thơ tín của Ba-na-ba" và sách
"Didache."
4.-- Những "tác phẩm giả mạo của bọn theo tà giáo": "Tin
Lành của Phi-e-rơ," "Tin Lành của Thô-ma," "Tin Lành của Ma-thia," "Công vụ các
sứ đồ" của Anh-rê, "Công- vụ các Sứ-đồ" của Giăng.
Giáo hội nghị tại Carthage (năm 397 S.C.) đã phê chuẩn 27 quyển Tân Ước như chúng
ta được biết ngày nay. Giáo hội nghị nầy không thiết lập Tân Ước làm Kinh điển;
song chỉ bày tỏ cái đã trở thành sự phán đoán chung của các chi hội, và nhìn
nhận Quyển Sách được chỉ định làm Gia Tài Quí Báu Nhứt Của Loài
Người.
Sự phê bình kim thời
Kinh Thánh, gồm cả Kinh điển Tân Ước có 27 quyển, đã
được các Giáo phụ Hội Thánh đầu tiên nhìn nhận và, rốt lại, được Giáo hội nghị
Carthage phê chuẩn. Như vậy, không còn nghi ngờ chi nữa, Kinh Thánh đã
được giới tín đồ Ðấng Christ thừa nhận trải qua 1000 năm.
Vì tinh thần phê bình kim thời dấy lên, nên lại có cuộc
điều tra căn nguyên và tánh cách chân chánh của các sách trong Kinh Thánh và của
tất cả các sách từ thượng cổ.
Chữ "phê bình" đem áp dụng cho Kinh Thánh, là một danh
từ hơi sai, mặc dầu nhiều kẻ tự phụ và bất kính thật đã phê bình Kinh Thánh; hơn
nữa, danh từ ấy thường được dùng để chỉ về sự cố gắng của giới trí thức kim
thời, hòng phá hoại thẩm quyền thiên thượng của Kinh Thánh. Nếu danh từ ấy có
nghĩa là phê bình và bình tâm cứu xét các thực sự hoặc các thực sự dẫn chứng,
cốt để thành thực tìm tòi chân lý trong lịch sử, thì nó rất tự nhiên, hữu lý,
chánh đáng, và mở rộng sự hiểu biết Kinh Thánh của chúng ta.
Phê bình lịch sử.-- Sự phê bình nầy liên quan với tánh cách chân chánh của
các sác Kinh Thánh, tức là: Ai đã trứ tác mỗi quyển sách? trứ tác khi nào? và
mỗi quyển sách có phù hợp với lịch sử chăng?
Nói về các sách Tân Ước, thì đó chỉ là tại nêu lên vấn
đề mà thế hệ các Giáo phụ Hội Thánh đầu tiên đã nêu lên để được giải đáp mỹ mãn.
Sự cố gắng kiên quyết và uyên bác của các nhà phê bình kim thời để xác định tánh
cách chân chánh của các sách Tân Ước, cũng chẳng hơn gì sự cố gắng của những thế
hệ đương thời các sách ấy được phát hành lần đầu tiên. Quả thật, đối với các nhà
phê bình thời xưa, họ ở cương vị tốt hơn để quyết định tánh chất của những sách
đó. Ðoàn xe lửa chạy qua đã lâu rồi, mới toan làm cho nó trật đường rầy, thì
chẳng phải chuyện dễ đâu. Chẳng bao lâu, người ta cũng khám phá được các văn
phẩm giả mạo. Ngay khi một quyển sách xuất bản, người ta đã nhận biết nó có tánh
cách lịch sử, hay chỉ là truyện bịa. Nếu tôi viết lịch sử cuộc Chiến tranh Cách
mạng Mỹ quốc và ký tên tác giả là George Washington, thì tôi có
thể khiến ai tin rằng Washinton đã trứ tác chăng?
Có một điểm đáng tiếc ở các nhà phê bình đã loại bỏ quan
niệm truyền thống về căn nguyên của các sách trong Kinh Thánh,-- ấy là họ tự
nhận lấy cái độc quyền làm "học giả." Ý kiến của họ là "ý kiến chung của giới
học giả." Phải chăng họ có trí óc hẹp hòi đến nỗi nghĩ rằng chỉ những ai theo lý
thuyết của họ mới là học giả? Hay là họ ngu dốt đến nỗi không biết rằng rất
nhiều học giả uyên thâm nhứt thế giới lại thuộc phái bảo thủ? Quan điểm không
phải là dấu hiệu của học giả, nhưng chỉ là dấu hiệu của một loại trí óc. Quyển
Sách Cổ yêu dấu đã trải qua bao cuộc phê bình, và lâu lắm sau khi các nhà phê
bình đã bị lãng quên, nó vẫn còn được hàng bao nhiêu triệu người yêu mến, tôn
kính. Sách quí báu thay!
Phê bình bản văn.-- Ðây là so sánh các bản thảo khác nhau để chứng minh đâu
là đúng nguyên văn mà họ đã sao ra. Kết quả là bản Cựu Ước tiếng Hê-bơ-rơ
"Massocrétique" cùng bản Tân Ước tiếng Hy-lạp "Westcolt và
Hort," về toàn thể, là nguyên văn Kinh Thánh đúng nhứt. Nghề in đã loại
bỏ được nguy cơ sai lạc về bản văn.
Những Ngụy Kinh Tân Ước
Ðây là những sách Tin Lành, Công vụ các sứ đồ và các thơ
tín huyền hoặc, giả mạo, bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ thứ hai. Phần lớn giả mạo,
và ngay từ lúc đầu đã bị nhận ra là giả mạo. "Những sách nầy đầy dẫy truyện tích
phi lý và không xứng đáng về Ðấng Christ và các Sứ đồ, đến nỗi không hề được kể
là do Ðức Chúa Trời mà ra, và không hề được sắp trong Kinh Thánh." Trong khi cố
quyết thử lấp những khoảng trống của truyện tích Ðức Chúa Jêsus trong Tân Ước,
người ta đã dùng điển cứ giả dối để lan truyền những ý niệm tà
giáo."
Người ta biết rằng có chừng 50 sách "Tin Lành" giả mạo,
ấy là chưa kể nhiều sách "Công vụ các sứ đồ" và "Thơ tín" giả mạo. Những tác
phẩm giả mạo nầy nhiều quá, nên Hội Thánh đầu tiên rất cần phải phân biệt sự giả
với sự thật.
Người ta nói rằng Mahomet, giáo chủ Hồi giáo, đã
nhờ loại sách nầy phần lớn mà có những ý niệm về đạo Ðấng Christ. Loại sách nầy
cũng là căn nguyên các giáo lý của Giáo hội La-mã.
Ta không nên lẫn lộn nó với tác phẩm của các "Giáo phụ
Hội Thánh đầu tiên" có nói đến sau đây.
Dưới đây liệt kê những sách giả mạo được nhiều người
biết nhứt:
Tin Lành của Ni-cô-đem.-- Thể hiện các "Hành động của Phi-lát," tức là bản được
mạo nhận là chánh thức báo cáo cuộc xét xử Ðức Chúa Jêsus lên Hoàng đế
Tibère, sáng tác nhằm thế kỷ thứ 2 hoặc thứ 5. Hoàn toàn tưởng
tượng.
Mở đầu Tin Lành của
Gia-cơ.-- Tường thuật từ lúc Ma-ri sanh
ra tới khi các con trẻ vô tội bị tàn sát. Những truyện tích nầy bắt đầu lưu hành
ở thế kỷ thứ 2. Hoàn tất ở thế kỷ thứ 5.
Ma-ri biến hóa.-- Ðầy dẫy những phép
lạ khó tin, mà tuyệt điểm là "thân thể không tì vít và quí báu" của Ma-ri được
dời lên Thiên đàng. Sáng tác ở thế kỷ thứ 4, khi người ta bắt đầu thờ lạy Nữ
đồng trinh.
Tin Lành theo người
Hê-bơ-rơ.-- Thêm vào bốn sách Tin Lành
trong Kinh điển; có ít nhiều lời phán mạo nhận là của Ðức Chúa Jêsus.
Khoảng 100 S.C.
Tin Lành của phái
Ebionite.-- Soạn thảo dựa theo bốn sách
Tin lành, có lợi cho giáo lý của phái Ebionite. Giữa thế kỷ thứ 2 và thứ
4.
Tin Lành của người
Ai-cập.-- Những cuộc đàm thoại tưởng
tượng giữa Ðức Chúa Jêsus và Sa-lô-mê. Giữa khoảng 130 và 150 S.C. Do phái
Sabellius sử dụng.
Tin Lành của Phi-e-rơ.-- Giữa thế kỷ thứ 2. Căn cứ trên bốn sách Tin Lành trong
Kinh điển. Sáng tác để ủng hộ giáo lý của phái Docétique bài
Do-thái.
Tin Lành giả mạo của
Ma-thi-ơ.-- Một bản dịch giả mạo sách
Ma-thi-ơ, về thế kỷ thứ 5, đầy dẫy các phép lạ Ðức Chúa Jêsus đã làm khi còn thơ
ấu.
Tin Lành của Thô-ma.-- Thế kỷ thứ 2. Ðời sống của Ðức Chúa Jêsus, từ lúc 5 đến
lúc 12 tuổi. Mô tả Ngài là Ðấng làm phép lạ để thỏa mãn tánh trẻ con thất thường
của mình.
Ma-ri sanh ra.-- Một tác phẩm quyết tâm giả mạo để phát triển sự thờ lạy
Nữ đồng trinh Ma-ri. Truyện tích thiên sứ hằng ngày đến viếng thăm Ma-ri. Cùng
với sự dấy lên của chế độ Thủ lãnh kia, sách nầy được hoan nghinh nhiệt
liệt.
Tin Lành Ả-rập về tuổi thơ
ấu.-- Thế kỷ thứ 7. Truyện tích các
phép lạ đang khi Chúa kiều ngụ ở Ai-cập. Dị thường cực điểm.
Tin Lành của Giô-sép, người thợ
mộc.-- Thế kỷ thứ 4. Phát xuất từ
Ai-cập. Cốt để tôn vinh Giô-sép.
Sách Khải Huyền của
Phi-e-rơ.-- Những sự hiện thấy cố ý tạo
ra về Thiên đàng và địa ngục mà Phi-e-rơ đã được xem. Eusèbe cho là "giả
mạo."
Công vụ của Phao-lô.-- Giữa thế kỷ thứ 2. Một quyển tiểu thuyết cốt ghi khắc
sự tiết dục vào trí óc người ta. Có chứa thơ tín gởi cho Hội Thánh Cô-rinh-tô mà
người ta giả định là đã thất lạc.
Công vụ của Phi-e-rơ.-- Cuối thế kỷ thứ 2. Một truyện tình của con gái
Phi-e-rơ. Tương phản với sách "Simon Magus." Chứa truyện
"Quo Vadis."
Công vụ của Giăng.-- Cuối thế kỷ thứ 2. Tường thuật một cuộc viếng thăm kinh
thành La-mã. hoàn toàn tưởng tượng. Chứa một đoạn mô tả nhục dục làm cho ta kinh
tởm.
Công vụ của Anh-rê.-- Truyện tích Anh-rê thuyết phục Maximilla hãy
đoạn tuyệt với chồng nàng; kết quả là Anh-rê phải tuận đạo.
Công vụ của Thô-ma.-- Cuối thế kỷ thứ 2. Cũng như sách "Công vụ của Anh-rê,"
đây là một tiểu thuyết phiêu lưu, cốt khuyên bảo hãy tuyệt dục.
Thơ của Phi-e-rơ gởi cho
Gia-cơ.-- Cuối thế kỷ thứ 2. Kịch liệt
công kích Phao-lô. Một tác phẩm bịa đặt hoàn toàn, có lợi cho phái
Ebionite.
Thơ từ Lao-đi-xê gởi tới.-- Tự nhận là bức thơ có nói đến ở Cô-lô-se 4:16. Thâu
thập nhiều câu nói của Phao-lô.
Các thơ của Phao-lô gởi cho
Sénèque.-- Gồm cả các thơ của
Sénèque gởi cho Phao- lô. Một tác phẩm giả mạo ở thế kỷ thứ 4. Mục đích
hoặc để giới thiệu đạo Ðấng Christ với các môn đệ của Sénèque, hoặc để
giới thiệu Sénèque với các môn đồ Ðấng Christ.
Ðặc điểm chính của những tác phẩm trên đây là nó hoàn
toàn bịa đặt, song lại tự nhận là lịch sử. Phần lớn nó hoàn toàn phi lý đến nỗi
sự giả mạo đã hiển nhiên.
Các thơ của Abgarus.-- Các thơ nầy có thể có căn bản thực sự một phần nào.
Eusèbe tưởng vậy. Ông kể rằng Arbarus, vua thành Edesse,
lâm bệnh, và nghe nói về quyền phép của Ðức Chúa Jêsus. Vua bèn gởi thơ mời Ngài
đến chữa lành cho mình, và Ngài gởi thơ trả lời rằng: "Ta cần phải làm xong
những việc Ta được sai đến để làm, sau đó, Ta sẽ được tiếp lên với Ðấng đã sai
Ta đến. Vậy, khi được tiếp lên Thiên đàng rồi, Ta sẽ sai một môn đồ tới chữa
lành cho ngươi." Người ta kể rằng Tha-đê đã được sai đi, và được họ chỉ cho xem
các bức thơ trong văn khố thành Edesse. Có lẽ Ðức Chúa Jêsus đã nhắn tin
ấy, và họ chép lại.
Tác phẩm của các Giáo phụ Hội
Thánh
Ta không nên lẫn lộn những tác phẩm nầy với những sách
giả mạo kể ở mấy trang trước, trong những sách giả mạo ấy, tác giả lấy tên các
Sứ đồ để làm cho người ta tin truyện tích hoang đường của họ.
Giáo phụ Hội Thánh là những người còn sống sau thế hệ
các Sứ đồ. Chỉ có ít tác phẩm của họ còn lại đến ngày nay (chúng ta mong ước còn
có nhiều hơn là dường nào!), vì vật liệu họ dùng để viết rất mau hư, và vì đương
thời họ có sự bắt bớ dữ dội.
Nhưng dầu ít, nó cũng quí giá vô cùng, vì nó là vòng
xích nối liền giữa các Sứ đồ và Lịch sử Hội Thánh về sau. Một vài tác phẩm thuộc
loại nầy được coi quí đến nỗi ở ít nhiều địa phương, nó tạm thời được coi như là
Kinh Thánh.
Thơ tín của Clément gởi cho tín đồ
Cô-rinh-tô (95 S.C.). Clément
làm Giám mục tại La-mã (91-100 S.C.), là bạn hữu của Phao-lô và Phi-e-rơ. Chắc
ông có quen biết Sứ đồ Giăng. Ông viết thơ tín nầy trong năm Giăng bị đày ở đảo
Bát-mô. Sử chép rằng ông bị lên án phải đi làm việc trong các hầm mỏ, và đã tuận
đạo trong năm thứ 3 đời trị vì của Trajan. Người ta cho rằng có lẽ ông là
"Cơ-lê-măn" chép ở Phi-líp 4:3.
Cơ hội viết thơ tín nầy là một cuộc chia rẽ trong Hội
Thánh Cô-rinh-tô , và một số trưởng lão ở đó bị đám thanh niên ham mến thế gian
trục xuất. Thơ tín nầy viết nhơn danh Hội Thánh ở La-mã, đầy dẫy lời cao đẹp
khuyên bảo phải khiêm nhường, và luận nhiều về sự sống lại. Thơ tín được quí
chuộng tột bậc đến nỗi nhiều chi hội đem đọc công khai mãi tới thế kỷ thứ 4.
Trong bản thảo Kinh Thánh "A-léc-xăn-đơ-ri," ta thấy nó ở cuối Tân
Ước.
Thơ tín của Polycarpe gởi cho tín đồ
Phi-líp (khoảng 110 S.C.).
Polycarpe, môn đệ của Sứ đồ Giăng, Giám mục tại Si-miệc-nơ, đã viết nhiều
bức thơ, nhưng chỉ có bức thơ nầy còn lại. Ông viết nó để trả lời bức thơ của
tín đồ Phi-líp thỉnh vấn ông. Thơ tín nầy rất giống thơ tín của Phao-lô mà ông
khuyên họ phải kê cứu cẩn thận.
Các thơ tín của Ignace (khoảng 110 S.C.). Ignace là môn đệ của Giăng,
Giám mục tại thành An-ti-ốt; ông tuận đạo tại thành La-mã năm 110 S.C.. Trên
đường từ An-ti-ốt đến La-mã, trải qua miền Tiểu-Á-tế-á, ông đã viết 7 thơ tín
cho các chi hội Ê-phê-sô, Magnésie, Trallie, Phi-la-đen-phi,
Si-miệc-nơ, La-mã, và cho Polycarpe. Trong số ấy, Phao-lô đã gởi thơ tín
cho hai chi hội, và Giăng (trong sách Khải Huyền) đã gởi thơ tín cho ba chi hội.
Các thơ tín của Ignace đó đầy dẫy lời khuyên bảo êm ái, và tỏa ra tinh
thần vui mừng, hớn hở của ông trước triển vọng sắp tuận đạo. Những thơ tín nầy
nhấn mạnh vào sự tai hại của tà giáo và chia rẽ, lại cũng khuyên phải phục tòng
các trưởng lão trong Hội Thánh.
Thơ tín của Ba-na-ba. Viết giữa khoảng 90 và 120 S.C.. Có người tưởng đây là
Ba- na-ba trong Tân Ước, song có kẻ lại nghi ngờ điều đó. Ðây là một bức thơ
chung, gởi cho hết thảy tín đồ Ðấng Christ, trong đó lược giải Kinh Thánh, đặc
biệt cốt để chống lại sự quay về với đạo Do-thái. Ta thầy thơ tín nầy trong bản
thảo Kinh Thánh " Sinaitique," ở cuối phần Tân Ước; vậy, tỏ ra nó được
quí trọng lắm.
Các tàn bản của Papias. Papias là môn đệ của Giăng và Giám mục tại
Hiérapolis. Ông tuận đạo gần cùng một lúc với Polycarpe. Ông viết
một quyển: "Giải thích các bài giảng của Chúa," còn lưu lại tới thế kỷ thứ 13.
Nhưng bây giờ chỉ còn lại ít đoạn trưng dẫn trong các sách của Irénée,
Eusèbe và một vài tác giả khác.
"Didache," hoặc "Sự dạy dỗ của 12 Sứ đồ," hoặc -- với một nhan đề
dài hơn -- "Sự dạy dỗ của Chúa cho các dân ngoại bởi 12 Sứ đồ." Viết khoảng giữa
năm 80 và 120, có lẽ lắm chừng 100 S.C.. Không phải thật là tác phẩm của các Sứ
đồ, nhưng chỉ là một tác giả vô danh tuyên bố mình hiểu sự dạy dỗ của các Sứ đồ
là gì. Nó giống như thơ tín của Gia-cơ. Các trứ giả trong Hội Thánh đầu tiên
không nhìn nhận nó là Kinh điển, song cũng quí trọng nó lắm. Nó đầy dẫy những
lời trưng dẫn của các sách Tân Ước.
Người chăn chiên của
Hẹt-ma.-- Viết khoảng 100 hoặc 140
S.C.. Ðây là một tỷ dụ lâu đời nhứt về loại văn ngụ ngôn trong đạo Ðấng Christ,
tức là quyển "Thiên lộ Lịch trình" của Hội Thánh đầu tiên, và đương thời ấy, nó
cũng được hoan nghinh như vậy. Tác giả là người mộ đạo nồng nhiệt, và đã thấy
những khải tượng mà ông viết trong sách nầy; ông nhấn mạnh vào sự ăn năn, đời
thiêng liêng và sự tái lâm hầu gần của Chúa. Sách nầy được đọc trong nhiều chi
hội cho đến thời Thánh Jérôme. Ta thấy nó trong bản thảo Kinh Thánh
"Sinaitique," ở cuối phần Tân Ước. Nói rằng tác giả là Hẹt-ma ở Rô-ma
16:14, thì chỉ là đoán phỏng.
Biện giải của Aristide.-- Ông là một triết gia ở thành A-thên. Ông viết quyển:
"Binh vực đạo Ðấng Christ," gởi cho Hadrien năm 125 S.C., và cho
Antonin năm 137 S.C., thỉnh cầu hãy che chở tín đồ Ðấng Christ khỏi sự
bắt bớ. Ông nói rằng: "Giới tín đồ Ðấng Christ đáng được phước hơn mọi người, vì
họ có tín điều chân chánh, cao thượng, và vì đời sống họ trong sạch, từ thiện."
Ðây là văn phẩm lâu đời nhứt mà ta được biết, của một triết gia dành cho đạo
Ðấng Christ. Nó lại phát xuất từ A-thên, là "quê hương" của triết
lý.
Justin Martyr.-- (100-167 S.C.). Một triết gia sau khi thử theo triết lý
khắc kỷ (stoicisme), triết lý của Aristole, Pythagore, và
Platon, ông đã tìm được sự thỏa mãn trong đạo Ðấng Christ. Ông viết các
sách "Biện giải" gởi cho hoàng đế Antonin, để binh vực đạo Ðấng Christ và
phản đối sự hành quyết ba tín đồ mà không xét xử hợp lệ. Ông cũng viết sách "Ðàm
thoại với Trypho," tức là bài lý luận với một người Do-thái về Ðức Chúa
Jêsus là Ðấng Mê-si.
Thơ tín thứ hai của
Clément.-- Giữa khoảng 120 và 140 S.C..
Ðây là một bài giảng. Không biết chắc có phải là cùng một Clément trên
kia chăng. Không được quí trọng bằng thơ tín thứ nhứt.
Thơ tín của Diognetus.-- Sách binh vực đạo Ðấng Christ, do một tác giả vô danh
tự nhận là "môn đệ của các Sứ đồ."
Các Bản Thảo
Theo chỗ chúng ta biết, thì bản thảo nguyên văn của hết
các sách trong Tân Ước đều đã thất lạc.
Ngay từ lúc đầu, người ta đã khởi sự sao các tác phẩm
quí báu ấy cho những chi hội khác. Hết thế hệ nầy tới thế hệ khác, người ta đã
sao đi sao lại mỗi khi các bản sao cũ rách nát.
Vật liệu thường dùng để viết là giấy chỉ thảo (papyrus).
Giấy nầy làm bằng những lát mỏng của một loại cây mọc dưới nước ở Ai-cập. Hai
lát mỏng, một dọc, một ngang, được ép lại làm một, rồi đánh bóng. Mực thì làm
bằng than, keo và nước.
Những tấm nhỏ dùng để chép bản văn ngắn. Muốn chép bản
văn dài, họ dán nhiều tấm liền gốc nhau, làm thành một cuốn. Một cuốn thường dài
chừng 10 thước tây, và cao chừng 23 hoặc 26 phân tây.
Nhằm thế kỷ thứ 2 S.C., người ta bắt đầu chép các sách
của Tân Ước dưới hình thức sách vở ngày nay, tức là bất cứ bao nhiêu tờ cũng có
thể đóng thành một quyển, có đánh số trang. Như vậy, một quyển có thể gồm nhiều
sách Tân Ước hơn một cuốn trước kia.
Giấy chỉ thảo không bền lắm. Với thời gian, nó hóa ra
dòn, hoặc vì ẩm mà mục đi, và chẳng bao lâu đã rách nát. Chỉ trừ ra ở Ai-cập,
khí hậu khô ráo và bãi cát dời chuyển đã giữ một mớ tài liệu lạ lùng từ thượng
cổ cho tới ngày nay, chúng ta khám phá được.
Nhằm thế kỷ thứ 4 S.C., giấy da bò non thay thế giấy chỉ
thảo, làm vật liệu chánh yếu để biên chép. Giấy da bò non mỏng mịn và bền hơn
bội phần, có thể đóng thành sách, chớ không phải cuốn nữa.
Mãi sau đây mới khám phá được những cuốn sách bằng giấy
chỉ thảo Ai-cập; ngoài ra, hết thảy bản thảo Kinh Thánh còn lưu truyền lại và ta
được biết đều bằng giấy da bò non.
Khi máy in được phát minh nhằm thế kỷ thứ 15, thì người
ta không còn dùng tay chép Kinh Thánh nữa.
Ngày nay, theo chỗ ta biết, có chừng 4000 bản thảo Kinh
Thánh hoặc một phần Kinh Thánh, chép giữa khoảng thế kỷ thứ 2 và thế kỷ 15. Ðối
với ta, dường như là ít, nhưng còn nhiều hơn bội phần bản thảo của bất cứ tác
phẩm thượng cổ nào khác. Người ta không biết có một toàn bộ văn phẩm của
Homère trước năm 1300 S.C., hoặc của Hérodote trước năm 1000
S.C..
Các bản thảo trên giấy da bò non mà ta được biết ngày
nay đã được chép giữa khoảng thế kỷ thứ 4 và thứ 15. Người ta gọi nó là bản
"hình chữ hoa La-mã" (oncial) và bản "viết tháu" (cursif). Bản
"hình chữ hoa La-mã" viết bằng chữ hoa lớn. Có chừng 160 bản thuộc loại nầy,
chép giữa thế kỷ thứ 4 và thứ 10. Bản "viết tháu" bằng chữ nhỏ thoăn thoắt liền
nối với nhau, và chép giữa thế kỷ thứ 10 và thứ 15. Các bản "hình chữ hoa La-mã"
quí giá bội phần hơn vì lâu đời hơn.
Ba bản thảo lâu đời nhứt, đầy đủ nhứt, nổi tiếng nhứt và
quí giá nhứt, vẫn gọi là "Codices," là: bản "Sinaitique," bản
"Vatican," và bản "A-léc-xăn-đơ-ri." Cả ba vốn là toàn bộ Kinh
Thánh.
Bản thảo "Sinaitique." hoặc "Codex
Sinaiticus," do một học giả người Ðức, tên là Tischendorf, tìm
thấy năm 1844, tại tu viện Sainte Catherine, trên núi Si-na-i.
Trong giỏ lá bỏ ra để đốt, ông nhận thấy những trang giấy da bò non viết chữ
Hy-lạp. Xem xét kỹ hơn, ông nhận thấy là những phần bản thảo cổ của bộ Cựu Ước
Septante, gồm 43 tờ. Ông hết sức tìm kiếm, nhưng không kiếm được chi hơn
nữa. Năm 1853, ông trở lại tu viện ấy để tìm kiếm nữa, nhưng không thấy chi hết.
Năm 1859, ông trở lại lần nữa. Ðang khi nói chuyện với viên quản gia về bản
Septante, thì viên quản gia nhận thấy mình có một bản sao cổ đó, bèn đem
ra; nó bọc kín trong một khăn ăn bằng giấy. Ðây là phần còn lại của bản thảo mà
Tischendorf đã có 43 tờ từ 15 năm trước. Nhìn qua các trang giấy da bò
non, ông nhận thấy mình cầm trong tay tác phẩm quí báu nhứt trên đời. Sau nhiều
cuộc điều đình quốc tế lâu ngày, rốt lại, nó được nhường cho Thơ viện Ðế quốc
tại thành phố Saint Pétersbourg (Nga). Nó cứ ở đó cho tới năm
1933, rồi được bán lại cho Anh quốc Bảo tàng viện với giá nửa triệu Mỹ kim. Nó
gồm 199 tờ Cựu Ước và tất cả Tân Ước, luôn với "Thơ tín của Ba-na-ba" và một
phần quyển "Người chăn chiên của Hẹt-ma." Phần nầy gồm 148 tờ, cộng là 347 tờ,
viết rất đẹp trên giấy da bò non mịn mỏng nhứt; các tờ nầy bề dài chừng 40 phân,
bề rộng chừng 36 phân, và chép vào phần đầu thế kỷ thứ 4. Ðó là bản thảo cổ duy
nhứt có chứa cả Tân Ước. 43 tờ mà Tischendorf tìm được trong cuộc viếng
thăm đầu tiên, hiện nay ở Thơ viện trường Ðại học Leipzig
(Ðức).
Bản thảo Vativan.-- Chép nhằm thế kỷ thứ 4. Ðể tại Thơ viện Vatican
từ năm 1481. Thiếu một vài đoạn Tân Ước. Bản nầy và bản Sinaitique là hai
bản cổ nhứt và quí giá nhứt. Tischendorf cho rằng có lẽ cả hai do một
người chép, và có lẽ ở trong số 50 bộ Kinh Thánh do Constantin truyền
chép.
Bản "A-léc-xăn-đơ-ri." Chép nhằm thế kỷ thứ 5, tại thành Alexandrie
(Ai-cập). Ðể tại Anh quốc Bảo tàng viện từ năm 1627. Toàn bộ Kinh Thánh, chỉ
thiếu vài đoạn; cũng có các thơ tín của Clément và các Thi Thiên của
Sa-lô-môn.
Các bản thảo khác.-- Bản "Ephraem," chép vào thế kỷ thứ 5, hiện nay ở
Ba-lê (Pháp), gồm chừng một nửa Tân Ước. Bản "Beza," chép vào thế kỷ thứ
5, hiện nay ở trường Ðại học Cambridge (Anh), gồm 4 sách Tin Lành và sách
Công vụ các sứ đồ. Bản "Washington," chép vào thế kỷ thứ 4, tìm thấy tại
Ai-cập, năm 1906, hiện nay ở Thơ viện Smithsonian, kinh thành
Hoa-thịnh-đốn, và gồm các sách Tin Lành.
KINH THÁNH IN
Sự sáng chế máy ấn loát bởi Jean Gutenberg, người Ðức, năm 1454
S.C., làm hạ giá và tăng số Kinh Thánh nhiều. Nó giúp cho Kinh Thánh lưu hành và
có ảnh hưởng giữa quần chúng rất nhiều. Trước kia, Kinh Thánh đáng giá cả một
năm công xá. Quyển sách Gutenberg in đầu tiên là Kinh Thánh. Một quyển
trong số in đó hiện nay để ở Thơ viện Mỹ quốc tại Hoa-thịnh-đốn, giá mua là 350
ngàn Mỹ kim.
Các Bản Chỉ Thảo
Phát minh các bản chỉ
thảo.-- Trong khi đào bới trung bộ
Ai-cập, Flinders Petrie nhận thấy những tờ chỉ thảo cổ thời lẫn
trong các đống rác chôn vùi dưới cát; ông bèn nghĩ rằng có lẽ nó quí giá lắm.
Năm 1895, hai học trò của ông tại trường Ðại học Oxford, là
Grenfell và Hunt, bắt đầu theo phương pháp mà tìm kiếm những bản
chỉ thảo nầy. Trong mười năm sau, tại Oxyrhynchus và những miền phụ cận,
họ tìm thấy 10.000 bản thảo và phần bản thảo. Các nhà khảo cổ khác cũng đào bới
và tìm thấy rất nhiều bản thảo giống như vậy. Họ đào nó lên từ những đống rác bị
cát phủ, những lớp nhồi trong hòm chứa xác ướp, và trong những xác cá sấu xức
thuốc thơm. Phấn nhiều là thư từ, hóa đơn, biên lai, nhựt ký, chứng chỉ, niên
lịch thông thư, v.v... Có một số tài liệu lịch sử quí giá, niên hiệu từ 2000
T.C.. Tuy nhiên, phần nhiều có niên hiệu từ 300 T.C. đến 300 S.C.. Trong số đó,
có một ít tác phẩm của thời sơ khởi đạo Ðấng Christ; đó là điểm khiến người kê
cứu Kinh Thánh chú ý đến nó.
Tàn bản của sác Tin Lành
Giăng.-- Ðây là một mảnh giấy chỉ thảo
nhỏ bé, dài chừng 9 phân, và rộng hơn 6 phân, một mặt chép Giăng 18:31-33, còn
một mặt chép Giăng 18:37-38. So sánh hình chữ cái và văn thể với một số bản thảo
có niên hiệu, các học giả cho nó ở phần đầu thế kỷ thứ 2. Ðó là bản thảo lâu đời
nhứt mà ta được biết, và là chứng cớ tỏ ra rằng sách Tin Lành Giăng thật có và
được lưu hành ở Ai-cập trong những năm ngay sau khi Giăng qua đời. Người ta tìm
thấy nó năm 1920, và hiện nay để ở thơ viện Rylands, thành phố
Manchester (Anh).
Các sách Tin Lành và sách Công vụ các sứ
đồ.-- Trong số giấy chỉ thảo, có 30 tờ
không toàn vẹn, chép một phần các sách Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng và Công vụ
các sứ đồ, vào khoảng đầu thế kỷ thứ 3. Ðây là một phần của bộ sách
"Chester Beatty."
Các thơ tín của Phao-lô gồm 86 tờ (trong số 104 tờ đào bới được), chép các thơ
Rô-ma, Hê-bơ-rơ, I và II Cô-rinh-tô, Ê-phê-sô, Ga-la-ti, Phi-líp, Cô-lô-se, I và
IITê-sa-lô- ni-ca. Bộ nầy chép khoảng 200 S.C.. Thuộc trong bộ sách chỉ thảo
"Chester Beatty."
Bộ sách "Chester Beatty" cũng có gồm một số bản thảo Sáng-thế Ký, Dân số ký,
Phục truyền luật lệ ký, Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên, Ða-ni-ên, Ê-xơ-tê, và
chừng một phần ba sách Khải Huyền. Bộ sách nầy được công bố năm 1931. Một phần
thuộc về trường Ðại học Michigan. Nó được coi là công trình phát minh bản
văn Kinh Thánh quan trọng hơn hết kể từ khi phát minh bản thảo
Sinaitique; và nó là bằng cớ quí giá tỏ ra rằng các sách của Tân Ước là
chân chánh và toàn vẹn.
Bộ sách "Logia." Ngoài nhiều mảnh giấy chỉ thảo chép những đoạn sách
Kinh Thánh, còn có các mảnh chép "Lời phán của Ðức Chúa Jêsus" từ trước tới nay
chưa từng có ai chép, và rất thịnh hành trong thế kỷ thứ 3. Cũng có các mảnh
chép nhiều đoạn của một sách Tin Lành vô danh, đối chiếu với 4 sách Tin Lành
Kinh điển; và các mảnh khác chép những biến cố tương tự trong đời Ðức Chúa
Jêsus.
Ngôn ngữ của các bản giấy chỉ
thảo.-- Adolph Deissman,
Một học giả Ðức, nhận xét rằng chữ Hy-lạp trên các bản chỉ thảo giống như chữ
Hy-lạp của Tân Ước, chớ không phải chữ Hy-lạp cổ điển thời Périclès.
Trong tiếng Hy-lạp của Tân Ước, có 500 chữ không thấy trong tiếng Hy-lạp cổ
điển. Sự phát minh Tân Ước viết bằng thứ tiếng nhật dụng của thường dân đã thúc
đẩy người ta phiên dịch Tân Ước ra ngôn ngữ kim thời ít lâu nay.
Các Bản Dịch Cổ Thời
Cựu Ước viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ. Tân Ước viết bằng
tiếng Hy-lạp. Một bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy-lạp, gọi là "Septante,"
thực hiện vào thế kỷ thứ 3 T.C., được thông dụng đương thời Ðức Chúa Jêsus. Thời
ấy, tiếng Hy-lạp thông dụng khắp đế quốc La-mã.
Bản Syriaque(1) cổ thời.-- Phiên dịch vào
thế thứ 2 S.C., để cho người Sy-ri dùng. Không còn bản thảo nào toàn
vẹn.
Bản Peshito Syriaque.-- Phiên dịch vào thế kỷ thứ 4. Căn cứ vào bản
Syriaque cổ thời, và hoàn toàn thay thế bản ấy. "Peshito" nghĩa là
"giản dị". Về sau, còn có nhiều bản dịch Syriaque khác nữa.
Bản La-tinh cổ thời.-- Phiên dịch vào thế kỷ thứ 2. Phần Cựu Ước không dịch từ
tiếng Hê-bơ-rơ, nhưng từ bản Septante.
Bản Vulgate.-- Tức là nhuận chánh bản La-tinh cổ thời, do Thánh
Jérôme thực hiện (382-404 S.C.). Phần Cựu Ước, trừ các Thi Thiên, đã được
dịch thẳng từ tiếng Hê-bơ-rơ. Nó trở thành Kinh Thánh của Tây phương trong 1000
năm.
Bản Coptique.-- Ðây là thứ tiếng bình dân ở Ai-cập. Dịch vào thế kỷ thứ
2 S.C.. Theo sau còn có nhiều bản dịch nữa.
Các bản dịch khác.-- Vào thế kỷ thứ 4, có bản Ê-thi-ô-bi và Gothique.
Vào thế kỷ thứ 5, có bản Arménien, vào thế kỷ thứ 9, có bản Ả-rập và
Slave (Ðông Âu).
Khi chế độ Thủ lãnh kia bành trướng, thì Kinh Thánh hoàn
toàn bị loại bỏ, vì bị thay thế bởi những sắc lịnh và tín điều do các Giáo hội
nghị và các Thủ lãnh kia ban bố.
Với cuộc Cải chánh Tin Lành, người ta lại chú ý đến Kinh
Thánh; cho đến ngày nay, thì Kinh Thánh hoặc phần Kinh Thánh đã được dịch ra hơn
1000 thứ tiếng và thổ ngữ. Ước lượng ngày nay, 9 phần 10 dân số trên thế giới có
thể đọc hoặc nghe Kinh Thánh bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Các Bản Dịch Ra Tiếng Anh
Caedmon (676
S.C.), Bede (672-735), Alfred đại đế (849-901), đã dịch nhiều phần
ngắn của Kinh Thánh ra tiếng Anglo-Saxon. Theo sau còn ít người
thử dịch từng đoạn.
Kinh Thánh của Wycliffe (1382 S.C.).-- Ðây là bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng tiếng
Anh. Dịch từ bản Vulgate. Ðây chỉ có bản thảo, vì đã dịch trước khi phát
minh máy in. Không được lưu hành rộng rãi, nhưng đã tới tay nhân dân, và là một
trong những yếu tố mở đường cho cuộc Cải chánh Tin Lành. Thủ lãnh kia chống đối
ông. Ông bị dứt phép thông công và sau khi qua đời, hài cốt ông bị đốt và quăng
xuống sông.
Kinh Thánh của Tyndale (1525).-- Dịch từ nguyên văn Hê-bơ-rơ và Hy-lạp. Ðúng
hơn Kinh Thánh của Wyclif. Bị bắt bớ, Tyndale bỏ nước Anh, chạy
qua Hambourg, rồi tới Cologne và Worms, là nơi bản Tân Ước
của ông được in và chở lậu vào nước Anh trong những bao hàng hóa. Vì cớ dịch
Kinh Thánh ra tiếng mẹ đẻ, ông bị giới linh mục ra lịnh thiêu chết ngày
6-10-1556.
Kinh Thánh của Coverdale (1535).-- Dịch từ tiếng Hà-lan và tiếng La-tinh. Sau đó
có Kinh Thánh của Rogers (1537), sao lại hầu hết Kinh Thánh của
Tyndale; và có "Kinh Thánh Lớn" (1539), là bản góp nhặt ba quyển Kinh
Thánh của Tyndale, Rogers và Coverdale.
Bản Kinh Thánh Genève (1560).-- Do một số học giả Tin Lành đã chạy trốn qua
Genève. Phần lớn dựa vào Kinh Thánh của Tyndale, và có những bí
chú thiên mạnh về phái Calvin. bản Kinh Thánh nầy rất được hoan nghinh,
sau đó có bản "Kinh Thánh của Giám mục" (1568), được phép dùng trong Giáo hội
Anh quốc.
Bản Kinh Thánh của vua
James (1611).-- Do vua James ra
lịnh phiên dịch, cốt để sự cuộc thờ phượng của xứ Tô-cách-lan thuộc Trưởng lão
hội và của nước Anh thuộc Thánh-công-hội được đồng nhứt.Ðây là nhuận chánh các
bản dịch dựa vào Kinh Thánh của Tyndale. Suốt 300 năm, bản nầy là Kinh
Thánh gia đình của thế giới nói tiếng Anh.
Cuộc nhuận chánh Anh-Mỹ (1881-1885).-- Công tác của 51 học giả Anh và 32 học
giả Mỹ. Việc nầy trở nên cần thiết vì một vài danh từ Anh thay đổi ý nghĩa, và
vì muốn có một bản văn thuần túy hơn. Nó theo bản dịch của vua James, trừ
ra chỗ nào có một danh từ cần thay đổi. năm 1901 có phát hành một bản Mỹ, thể
hiện những sự thay đổi nhỏ nhặt mà "Ủy ban Nhuận chánh Mỹ" muốn có. Năm 1952,
lại phát hành một bản nhuận chánh nữa, đặt tên là "Bản Nhuận chánh Tiêu chuẩn"
(Revised Standrad Version).
Những chữ in nghiêng trong các bản Kinh Thánh tiếng Anh
tỏ ra rằng chữ đó không có trong nguyên văn, song đã thêm vào cho ý nghĩa được
đầy đủ.
Ðoạn và câu vốn không có trong nguyên văn, nhưng đã do
Hồng y Giáo chủ Caro (1236 S.C.) và Robert Stephens (1551 S.C.)
thêm vào.
Các Bản Dịch Ra Ngôn Ngữ Kim
Thời
Người ta đã cố gắng nhiều lần, nhiều cách để diễn lại
trong ngôn ngữ của chúng ta(1) cho đúng ý tưởng của nguyên văn. Dưới đây xin
kê khai những bản dịch danh tiếng hơn hết thuộc loại nầy. Dầu nó chiếu sáng vào
một vài đoạn, và một vài câu của nó thật là "châu ngọc hoàn toàn," nhưng ít ra
là đối với một số trong vòng chúng ta, về toàn thể, nó chỉ là thử nói những điều
giống nhau bằng một lối khác.
Tân Ước thế kỷ 20.-- Ðây là bản dịch thứ nhứt ra ngôn ngữ kim thời, có tánh
cách bình dân. Phát hành năm 1898. Do chừng 20 học giả Anh phiên dịch. Ðược coi
là bản dịch rất đúng.
Tân Ước của Weymouth.-- Ông là một người thuộc hội Baptiste nước Anh,
không có chức Mục sư. Phát hành năm 1903, sau khi ông qua đời. Do một số người
khác nhuận chánh năm 1924 và 1933.
Toàn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Anh kim thời,
của Fenton.-- Ferrar
Fenton là một người Anh rất giàu có. Trải qua lâu năm, ông chỉ đọc nguyên
văn Kinh Thánh, hầu cho bản dịch của mình khỏi chịu ảnh hưởng những bản dịch
khác. Phát hành năm 1903.
Bản dịch của Moffatt.-- Moffatt là người Tô-cách-lan, làm giáo sư trường
Thần học Liên hiệp ở Nữu-ước (Mỹ) từ năm 1927. Ông phát hành bản Tân Ước năm
1913, bản Cựu Ước năm 1924, toàn bộ Kinh Thánh năm 1926 và 1935.
Bản Tân Ước Ballantine.-- Ông là Mục sư Hội Tự trị Giáo đoàn
(Congregational), và làm hiệu trưởng trường Thần đạo Oberloin.
Phát hành năm 1923.
Smith và Goodspeed.-- Goodspeed là giáo sư trường Ðại học
Chicago (Mỹ), phát hành Tân Ước năm 1923. J.M.Powis Smith cũng là
Giáo sư trường Ðại học Chicago, phát hành bản dịch Cựu Ước năm 1923, với
sự hợp tác của Gordon, Giáo sư trường Ðại học McGill, Meek,
giáo sư trường Ðại học Toronto, và Waterman, giáo sư trường Ðại
học Michigan. Năm 1931, hai bản Tân, Cựu ước nầy hợp một và gọi là: "Bản
dịch tiếng Mỹ." Không nên lẫn lộn bản nầy với "Bản Tiêu chuẩn tiếng Mỹ của Kinh
Thánh nhuận chánh."
Tân Ước đệ bách chu niên của
Montgomery.-- Phát hành năm 1924. Bà
Montgomery, ở thành phố Rochester (tiểu bang Nữu Ước), là Chủ tịch
Hội đồng của Hội Thánh Baptiste phía Bắc nước Mỹ, năm 1924. Bản Tân Ước
của bà là văn phẩm kỷ niệm đệ bách chu niên Hội Xuất bản Baptiste Mỹ
quốc.
Tân Ước bằng tiếng Anh căn
bản.-- Ðây là bản dịch ra ngôn ngữ kim
thời mới nhứt. Phát hành năm 1941. Do ông S.H.Hooke, giáo sư trường Ðai
học Luân Ðôn, phiên dịch với sự cộng tác của 8 học giả trứ danh. Chỉ dùng 1000
danh từ đơn sơ nhứt của Anh ngữ. Tân Ước nầy đã được toàn thể báo chí Tin lành
nhiệt liệt tán thưởng. Xin nhớ rằng "Tiếng Anh căn bản" là một hình thức giản dị
hóa của Anh văn, do ông C.K.Ogden, giáo sư Ðại học đường Cambridge
(nước Anh), soạn thảo, nhờ đó, với 850 danh từ, người ta có thể phát biểu bất cứ
điều gì thường nói bằng tiếng Anh.
(1) Tức là tiếng Araméenne thông dụng trong xứ Sy-ri thời xưa.
(1) Tác giả muốn nói: Tiếng Anh