Thursday, March 28, 2013

Đổi Mới Tư Duy về Khoa Học


Tín Trung

“Hãy lắng tai nghe lời kể khôn ngoan, khá chuyên lòng con về sự tri thức Ta. Vì nếu con gìn giữ nó trong lòng con, lập nó ở chung nhau trên môi miệng con, thì ấy thật sự là một sự tốt đẹp.” 
(Châm Ngôn 22:17-18).
“Thảy đều rõ ràng cho người hiểu biết, và ngay thẳng cho người tìm được sự tri thức. Khá nhận sự khuyên dạy ta, chớ lãnh tiền bạc. Thà lãnh sự tri thức hơn là vàng chọn lựa, vì sự khôn ngoan có giá hơn châu ngọc, và các vật mình ưa thích hơn hết chẳng sánh bằng nó đặng.” 
(Châm Ngôn 8:9-10).
- - - o O o - - -


Dẫn nhập.
Khoa học hiện đại phát triển rực rỡ với tốc độ vũ bão từ sau nủa cuối thế kỷ XX mang lại sự biến đổi lớn lao trên mọi mặt hoạt động xã hội tư duy của loài người. Về phương diện nhận thức luận, con người đã dần nhận thức được phạm vi, tác động và vai trò của khoa học một cách khách quan và đầy đủ hơn. Điều này có ý nghĩa lớn lao trong tư duy, hành động của mỗi cá nhân chúng ta trong xoáy lốc cuộc sống hiện đại phức hợp, đa tầng muôn mầu muôn vẻ.

Bài viết này là sự tiếp nối các phân tích tư duy về khoa học trong những biện giải theo hướng "Đức tin tâm linh và niềm tin khoa học"(Thông công7), "Bên ngoài khoa học" (Thông công 6), Tương đối và tuyệt đối" ( Thông công 2), "Ngẫu nhiên và tất yếu" ( Thông công 9 ), "Cội nguồn", (Thông công 10), ”Hữu hạn và vô hạn" (Thông công 18 ), "Đời sống tâm linh" (Thông công 22)…và một số bài khác trong chuyên mục Niềm Tin và Khoa Học. Mục đích của tác giả là muốn cùng quí vị độc giả lược qua lịch sử của khoa học trong bối cảnh phát triển xã hội loài người để có sự đổi mới tư duy về khoa học. Qua đó chúng ta có một nhãn quan hệ thống toàn diện đầy đủ về phạm vi và tác động của khoa học đối với thế giới tư nhiên và xã hội cũng như tư duy loài người, trong quan hệ đối sánh với các quan điểm thần học cơ đốc về thế giới tâm linh hiện hành .
Lược sử phát triển của khoa học
Khoa học hiện đại vốn được khơi nguồn từ nền văn minh Hy Lạp cổ đại thời Áristôt và phát triển rực rỡ trong thời kỳ Khai sáng Phục hưng ở Châu Âu vài đầu thế kỷ 17 (trùng hợp với thời kỳ kỳ phát triển đạo Tin Lành tại chính Châu âu do Martin Luther). Bắt đầu sự phát triển là các học thuyết về chuyển động cơ học của các vật thể do Galilê và Newton sáng lập. Đến đầu thế kỷ XX, khi lý thuyết tương đối của Anbert Einstein và lý thuyết lượng tử của Max Planck ra đời và được khẳng định tính đúng đắn, khoa học đã tiến được những bước dài, sâu sắc và rộng lớn trên các lĩnh vực nghiên cứu tự nhiên, xã hội và tư duy. Các nhà bác học, các nhà nghiên cứu bắt đầu suy nghĩ một cách hệ thống về thực chất của khoa học. Họ tìm cách trả lời những câu hỏi về “khoa học luận”: Khoa học là gì? Chủ thể và đối tượng của khoa học? Công cụ của khoa học? Mục đích của khoa học? Phạm vi và tác động của khoa học? Chúng tôi sẽ bàn luận đầy đủ hơn về các câu hỏi trên. Trong bài viết này, chỉ tập trung vào một vài điểm chính phục vụ cho mục đích đổi mới tư duy về khoa học.
Khoa học là hệ thống tri thức về thế giới khách quan. Một cách cụ thể hơn, khoa học là tập hợp liên kết toàn bộ các tri thức, dữ kiện về tự nhiên, xã hội và tư duy. Khoa học cũng bao gồm các lý thuyết và các phương pháp được tổng hợp và thu góp lại trong các thư phẩm hiện hành và các sản phẩm khoa học đã và đang sử dụng phục vụ cho lợi ích vật chất, tinh thần của con người.
Các nhà khoa học đã tổng kết, đến cuối thế kỷ XX, sự phất triển của xã hội loài người dựa trên ba cột trụ lớn, được đặt căn bản trên nền tảng khoa học toán học: Đó là khoa học vật lý lượng tử, khoa học sinh học phân tử và gien (D.N.A) và khoa học công nghệ thông tin (E.C và P.C). Thành tựu lớn lao này là kết quả của sự sáng tạo không ngừng rất đáng trân trọng của các nhà khoa học chân chính thuộc nhiều dân tộc, trong mọi thời đại trên trái đất này. Tuy nhiên, việc nhận thức vai trò, phạm vi tác động và ảnh hưởng của khoa học không phải lúc nào cũng khách quan và đúng đắn.
Cuối thế kỷ thứ XX và đặc biệt vào đầu thế kỷ XXI, những người quá đề cao khoa học và chủ nghĩa duy lý đã cực đoan cho rằng: “Có những quy luật tự nhiên thống trị xã hội loài người tương tự như đã thống trị thế giới vật lý-cơ học”. Bởi vậy xu thế “khoa học hoá” được áp dụng tràn lan. Các tư tưởng và phương pháp khoa học luôn đặt ở vị trí cao nhất, chiếm lĩnh hầu hết việc nghiên cứu các đối tượng khoa học tự nhiên và ngay cả các ngành kinh tế, xã hội… trong khoa học xã hội. Điều này tạo nên nhiều ngành “khoa học ứng dụng” (Applied sciences). Dần dần hình thành mối quan hệ đặc thù giữa khoa học với xã hội được gọi là “khoa học phương thức 1” và “xã hội phương thức 1”.
Trong mối quan hệ này, khoa học sản xuất ra các tri thức có tính phổ quát ( Universal), các chân lý “khách quan” rồi được ứng dụng vào các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người để tạo ra các tri thức ứng dụng. Nói cách khác, đây là quan hệ một chiều theo hướng “khoa học nói với (chỉ dẫn) xã hội”. Xã hội có vai trò thụ động nghe “tin” và làm theo những gì khoa học nói (chỉ dẫn). Mối quan hệ này được duy trì một cách êm ả trong suốt thế kỷ thứ XIX và gần hết thế kỷ thứ XX.
Dường như khoa học ở thế thượng phong, tự cho mình quyền quyết định tối hậu trong mọi hoạt động của con người. “Chủ nghĩa khoa học”, “chủ nghĩ duy lý” được cổ suý khắp mọi nơi. Nhiều người còn chủ quan quyết đoán rằng chỉ ưu tiên truyền tải một chiều từ khoa học đến xã hội, không cần lưu tâm đến những tác động của bất kỳ thong tin ngược nào từ phía xã hội. Đặc biệt đó là các thông tin đến từ thế giới bên trong của loài người (tinh thần, tình cảm, ý chí, lý trí, tâm linh…) thì chỉ được đề cập một cách hời hợt.
Trái đắng và gót chân Asin
Những người có tư tưởng nhân ái sâu sắc thực sự lo lắng trước sự phát triển mạnh mẽ một chiều của khoa học, nhưng thiếu hụt những giá trị của đạo đức và lương tâm thuần khiết. Francois Rabelais, nhà xã hội học nổi tiếng người Pháp thế kỷ thứ XIX đã nói: “Khoa học vô lương chỉ là sự hư nát của linh hồn”. Sự thật đã chỉ rõ, không phải mọi quả trên cây khoa học đều là trái ngọt. Đã có nhiều trái đắng, thậm chỉ trái độc này sinh trên cây đó. Một cách khái quát, không phải mọi bước tiến của khoa học đều mang lại tiến bộ xã hội, trái lại, một số đã mang lại bóng tối và thảm hoạ cho loài người, một khi chủ nghĩa duy lý, vị kỷ và sự kiêu ngạo được tôn cao.
Bà Indira Gandhi (nguyên thủ tướng Ấn độ những năm tám mươi của thế kỷ XX) đã nói: “Đôi khi khoa học thì tiến lên, nhưng văn hoá thì thụt lùi”. Chúng ta điểm qua một vài sự kiện như thế.
Alfred Nobel- người sáng chế ra chất nổ (TNT), rất ân hận và đau xót vì hậu quả của bom mìn do con người tạo ra đã giết hại bao người vô tội. Ông đã quyết định lập ra giải thưởng Nobel hang năm để tôn vinh các cá nhân của các ngành khoa học đã đóng góp vì nên hoà bình của loài người.
Pierre Curie- người nhận giải thưởng Nobel năm 1903 về việc phát minh ra chất phóng xạ, đã tha thiết nói lên tâm nguyện của mình: “Tôi thuộc lớp người theo gót Nobel với mong muốn những phát minh của mình sẽ không bao giờ bị sử dụng vào mục đích chống nhân loại”.
Nhưng trớ trêu thay, hai đám mây hình nấm khổng lồ của hai quả bom nguyên tử được thả xuống Nagasaki và Hirôsima (8/1945) đã trở thành biểu tượng chết chóc kinh khiếp do con người tạo ra từ sự tiến bộ khoa học. Sự việc trở nên càng bi đát hơn khi việc thả bom nguyên tử lại được chính Albert Einstein, bộ óc vĩ đại của thế kỷ XX, đóng vai trò tư vẫn chính trong dự án Manhatan. Hình ảnh thảm khốc của hàng trăm ngàn người Nhật bản bị chết thê thảm đã ám ảnh ông đến cuối cuộc đời. Einstein đã cảnh báo loài người: “Hãy coi chừng, đừng để tri thức thành chúa tể chúng ta”.
Mỗi tấm huân chương đều có mặt trái, câu ngạn ngữ này đúng cho nhiều hoạt động của con người, đặc biệt là đối với khoa học. Hiểm hoạ do con người đã gây ra cho đến ngày hôm nay thật không kể xiết. Hàng trăm triệu người đã chết trong các cuộc chiến tranh dọc chiều dài lịch sử của loài người. Môi trường bị huỷ hoại do hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên. Hệ quả của hiệu ứng này làm nước biển dâng lên nhấn chìm nhiều đồng bằng, thành phố ven biển. Nguy cơ đói kém, dịch bệnh, thiên tai luôn rình rập. Liền kề là những kho vũ khí thong thường và hạt nhân do con người tích luỹ, đã đủ sức tàn phá gấp bốn lần trái đất này.
Nhưng đó chưa phải là cuối cùng. Khi khoa học phát triển như vũ bão, trong đám men kiêu ngạo của con người thì đã xảy ra việc lặp lại một sự kiện lịch sử, như xưa kia người ta xây tháp Baben trong thói tự cao tự đại, xem thường sự tể trị của Đấng Tối Cao. Khi đó, những nền tảng căn bản của đạo đức bị băng hoại, chân lý thuộc về tay kẻ mạnh; tức là những người có sức mạnh vật chất, có khoa học tiên tiến, sở hữu các vũ khí tối tân, giỏi toan tính để áp đặt người khác trong kế hoạch cá nhân, trong lợi ích cục bộ của quốc gia dân tộc. Khi đó, không còn lẽ thật, công lý để mang lại sự tốt đẹp cho con người mà chỉ còn sự giả hình, nguỵ tạo của thói bất nhân vô lương ngự trị.
Kinh Thánh đã chỉ rõ nhiều lời tiên tri về sự duy chí của con người, người ta sẽ chạy ngược, chạy xuôi để đi tìm kiến thức và giải pháp theo cách riêng, nhưng: “Có một con đường coi dường chính đáng cho loài người; nhưng đến cuối chúng nó thành ra nẻo sự chết” (Châm Ngôn 14:12). Satan thường lợi dụng sự kiêu ngạo của loài người thậm chí xúi dục người ta bất tuân và phủ nhận Thượng Đế. Đây là đỉnh điểm của sự băng hoại đạo đức và đời sống tâm linh. Kinh Thánh đã cảnh báo: “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau” (Châm Ngôn 16:18); Và Chúa cũng khuyên dạy: “Kính sợ Đức Giê-hô-va, ấy là khởi đầu sự khôn ngoana“ (Châm Ngôn 9:10).
Khoa học còn có gót chân Asin, đó là những nghịch lý, nan đề gay cấn nằm ngay trong nền tảng triết học của khoa học. Xin nêu một số sự kiện tiêu biểu nhất.
Trong khoa sinh học, cùng với sự phát triển của sinh học phân tử và sinh học gien (A.D.N) cùng các ngành khoa học khác, đã chỉ ra những “lỗ hổng” không thể khắc phục được trong thuyết tiến hoá của Darwin. Đặc biệt nó không đưa ra một lý lẽ thoả đáng để giải thích những khía cạnh sâu sắc của đời sống con người- vật thọ tạo kỳ diệu của Đức Chúa Trời. Đó là bề trong của con người như sự tìm tòi chân lý, sự sang tạo không ngừng, cảm xúc về đạo đức, về cái đẹp, sự trông cậy, niềm tin vào Đấng Tối Cao và đặc biệt là tình yêu thương trong mỗi con người.
Toán học, nền tảng duy lý của các ngành khoa học tự nhiên và nhiều ngành khoa học khác cũng tồn tại những nghịch lý. Chẳng hạn như nghịch lý của lý thuyết tập hợp do Bernad Russel phát hiện ra đầu thế kỷ thứ XX. Tiếp đến Kurt Godel- giáo sư toán học người Đức, vào năm 1930 đã nêu lên định đề nổi tiếng mang tên ông: “Có những mệnh đề nền tảng của toán học không thể chứng minh được, bởi vì trong bất cứ hệ thống logic sử dụng ký hiệu hình thức nào, luôn tồn tại ít nhất một mệnh đề không thể chứng minh được, cũng không thể bị bác bỏ trong phạm vi hệ thống đó”. Như vậy, một ngành khoa học chính xác như toán học cũng trở nên bất toàn bởi gót chân Asin của mình.
Đúng vào thời gian này, khoảng năm 1932, nhà vật lý học người Đức Werner Heisenberg đã công bố nguyên lý bất định. Trong nguyên lý này đã khẳng định khoa học vật lý không thể xác định được cái tất định, cái tuyệt đối. Những cái đó thuộc nền tảng của thế giới tự nhiên do Chúa tạo nên. Bức tường Planck cũng là một thí dụ tương tự.
Nhà toán học thiên văn học nổi tiếng người Pháp Pierrer Simon Laplace (1749-1827) đã đề cập đến những giới hạn của nhận thức con người: “Cái chúng ta biết thì ít ỏi vô cùng, như những giọt nước biển. Cái chúng ta không biết thì mênh mông như đại dương”. Cái bất khả đã rung động trong tâm trí của nhiều người, trước hết là các nhà khoa học chân chính. Sự bất khả không chỉ nằm trong khoa học mà còn nằm trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động tinh thần của con người như văn chương, nghệ thuật, thi ca, chính trị, kinh tế…
Biết được điều mình không biết, ấy là hiểu biết thực sự. Việc nghiên cứu cái bất khả trở nên rất quan trọng. Emanuel Kant đã đề xướng thuyết bất khả tri vào cuối thế kỷ thứ XIX đánh dấu sự nhận biết giới hạn của tri thức con người. Godel đã phát biểu: “Ý nghĩa của đời sống chính là biết phân biệt giữa ước muốn và hiện thực, cái bất khả và cái hiện khả”. Điều này đáng để chúng ta phải suy nghĩ về sự khiêm nhường trước Đấng Toàn Năng; Phải nhận biết và tin Đức Chúa Giê-xu, Đấng nắm chìa khoá của sự sống, của tri thức và chân lý đời đời.
Đổi mới tư duy về khoa học
Kinh Thánh đã chỉ rõ: “Lòng người toan định đường lối mình, song Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước của người” (Châm Ngôn 16:9).
Khoa học càng tiến sâu vào các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực ứng dụng trong xã hội thì càng bộc lộ sự hạn chế của mình. Xã hôi càng phát triển thì nhiều thuộc tính phức tạp, bất định và hỗn loạn xuất hiện càng nhiều. Khi đó khoa học phương thức 1 dựa trên các giả thuyết tất định và quy giản không còn đủ khả năng lý giải được xã hội phương thức 2 như đã nêu trên. Một đòi hỏi tự nhiên, đó là sự cần thiết phải có một khoa học khác được gọi tên là khoa học phương thức 2.
Mối quan hệ giữa khoa học và xã hội, bởi đó cũng phải được thay đổi. Khoa học không chỉ nói với xã hội mà còn phải tiếp thu xã hội đối đáp lại với khoa học. Đó là lý do cần đổi mới tư duy về khoa học, hay là tư duy lại khoa học (Re-thinking Science) như nhiều nhà khoa học đã gọi như vậy. Khoa học trong cách tư duy mới không còn quyền uy tối thượng là sản xuất và ban phát chân lý “khách quan”; định đoạt tính đúng sai của các nhận thức theo cách lý giải của con người hữu hạn. Ngược lại, sự phát triển của khoa học
Gắn liền với tương tác thường xuyên với bối cảnh của tự nhiên và xã hội. Các bối cảnh này bị những xáo trộn ngẫu nhiên bất định và hiện tượng hỗn loạn chi phối, không thể dự đoán trước được. Mối quan hệ một chiều, tuyến tính được thay thế bằng mối quan hệ hai chiều, phi tuyến trong đó chứa đựng bối cảnh không tường minh bị chi phối bởi các lực lượng “bên ngoài khoa học”. Các nhà khoa học chân chính đã nhận thức được: “Có những điều huyền diệu không thể biết, nhưng lại gợi mở, soi sang và dẫn dắt một cách kỳ diệu cho những hiểu biết hiện tại của con người."
Triết gia người Anh Bacon (1561-1626)- người sáng lập chủ nghĩa duy vật và khoa học thực nghiệm cận đại đã nói: “khoa học nửa vời đưa người ta xa Đức Chúa Trời. Khoa học thực sự khiến chúng ta đến gần Ngài”.
Max Planck (1858-1947), nhà bác học người Đức nhận giải thưởng Nobel (1918) từng phát biểu: “Bởi vì khoa học thực sự cũng đem ra ánh sáng những giá trị của đạo đức, nó dạy chúng ta trước nhất tính chân thật và sự tôn kính. Tính chân thật trong sự vươn tới không ngừng những nhận thức luôn chính xác hơn của thế giới tinh thần và thế giới tự nhiên xung quanh chúng ta, sự tôn kính trong sự trầm tư về cái mãi mãi không thể hiểu được, cái huyền bí của Tạo Hoá trong lồng ngực của mình”.
Khoa học trở thành đối tượng nghiên cứu
Sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của khoa học trong thế kỷ thứ XX đã tạo ra một hệ thống tri thức đồ sộ và mở ra một kỷ nguyên bùng nổ thông tin. Khoa học nghiên cứu và khám phá nhiều góc cạnh khác nhau của thế giới chúng ta đang sống cũng như vũ trụ nơi chúng ta tồn tại. Khoa học phát triển đã tạo ra những thay đổi cơ bản nhiều quan niệm truyền thống trong sản xuất vật chất và đời sống tinh thần của toàn xã hội. Sự ứng dụng nhanh chóng các thành tựu của khoa học đã tạo ra công nghệ mới làm phát triển nền sản xuất hiện đại và làm sức sản xuất xã hội tăng lên bội phần trong một vài thập kỷ vừa qua.
Tuy nhiên, nếu sự phát triển của khoa học mà thiếu hụt giá trị của đạo đức và lương tâm, thì kết quả khoa học mang lại là những trái đắng, bóng tối và thảm hoạ cho con người. Xin được nhắc lại lời của Francois Rabelais, nhà xã hội học nổi tiếng người Pháp thế kỷ thứ XIX cảnh báo nghiêm khắc đối với những kẻ tôn cao chủ nghĩa duy lý, vị kỷ: “Khoa học vô lương chỉ là sự hư nát của linh hồn”.
Bởi vậy, đến phần mình khoa học cùng sự phát triển của nó cũng cần được nghiên cứu một cách khoa học và nghiêm túc. Một mặt, phải tổng kết thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học để đánh giá tác động tích cực, tiêu cực của khoa học đối với môi trường và con người. Phải phân loại và hệ thống hoá toàn bộ tri thức của nhân loại để có cái nhìn hệ thống, toàn diện về tri thức cũng như mối quan hệ tương tác giữa các bộ môn khoa học. Mặt khác, phải khái quát những lý thuyết về cơ chế, mục đích và phương pháp của khoa học, cũng như xây dựng các biện pháp tổ chức, quản lý các hoạt động nghiên cứu khoa học.
Như thế, khoa học thực sự đã trở thành một đối tượng nghiên cứu như một hoạt động thực tiễn của con người trong lịch sử với những mối quan hệ tương tác, chặt chẽ với các lĩnh vực khác như: Nghệ thuật, tôn giáo, thần học, âm nhạc, thơ ca… Theo hướng đó, nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, nhiều tạp chí, sách báo đã liên tục công bố những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này. Sự phát triển của khoa học đã được chỉ ra với những quy luật chung. Đó là sự phát triển với gia tốc mạnh mẽ trong các lĩnh vực. Sự phát triển có tính chất phân hoá nhưng cũng có tính chất tích hợp đi liền với việc ứng dụng một cách nhanh chóng các thành tựu nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực của đời sống.
Định hướng lại khoa học trong điều kiện xã hội phương thức 2, đó là khoa học phương thức 2, nhằm phát huy sức mạnh và tiềm lực của khoa học ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới một cách đúng đắn, phục vụ lợi ích chân chính của con người. Đây là một công việc lâu dài đòi hỏi phải huy động nhiều lực lượng trong xã hội, không chỉ những nhà khoa học, cùng hiệp đồng hành động. Do khuôn khổ và mục đích của bài viết, chúng tôi chỉ tập trung vào vấn đề phân loại khoa học và đề cập một phần quan hệ tương tác của khoa học trong khuôn khổ các bộ môn khoa học với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Phân loại khoa học
Bản chất: Phân loại khoa học là sự sắp xếp lại các bộ môn khoa học thành một hệ thống thứ bậc trên cơ sở những dấu hiệu đặc trưng bản chất của chúng. Phân loại khoa học phải đảm bảo hai yêu cầu: Khách quan và phối thuộc.
Có nhiều cách phân loại tuỳ theo tiêu thức và ý nghĩa ứng dụng của khoa học. Trước hết chúng ta hãy điểm qua một vài nét về lịch sử phân loại khoa học. Ngay từ thời triết học cổ đại, các nhà bác học đã đề cập đến phân loại khoa học.
Aristote (384-322 TC) đã nêu rõ bản chất của phân loại khoa học. Ông chia khoa học thành 3 nhóm: khoa học lý thuyết, khoa học thực hành, khoa học sang tạo. Theo Aristote, khoa học lý thuyết về sự nhận thức được tiến hành “vì bản thân nó”. Khoa học thực hành hướng dẫn cách “cư xử cho con người”. Khoa học sáng tạo đưa ra “cái có ích”, cái đẹp trong nghệ thuật thi ca.
Tiếp đó Epiquya (341-270 TC) cũng chia khoa học thành 3 lĩnh vực: Vật lý học là học thuyết về tự nhiên. Logic học là học thuyết về sự nhận thức. Đạo đức học là học thuyết về cách đạt đến hạnh phúc cho con người.
Vào thời kỳ trung cổ, khoa học được phân chia thành 3 hướng chính: Thần học, logic học và ngữ pháp. Khoa học tự nhiên lúc đó chỉ phụ thuộc vào các hướng trên.
Đến thế kỷ XVI, XVII, nhà triết học Anh F. Bacon (1561-1626) đã chia khoa học thành 3 bộ phận: Lịch sử, thơ ca, triết học. Theo ông, cách phân chia này phù hợp với các hoạt động tinh thần của con người.
Thời kỳ cận đại, Saint Simon (1760-1825) nhà khoa học Pháp, đã coi khoa học là một chỉnh thể và ông phân chia khoa học thành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội phụ thuộc vào khoa học tự nhiên. Khoa học tự nhiên được chia thành vật lý hữu cơ và vật lý vô cơ.
Hegel (1770-1825) nhà triết học nổi tiếng người Đức dựa trên cơ sở phép biện chứng duy tâm, phân chia khoa học thành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Ông chủ trương tập trung vào khoa học tự nhiên làm cơ sở cho khoa học xã hội. Trong khoa học tự nhiên bao gồm ngành cơ học nghiên cứu vận động khối lượng; hoá học nghiên cứu vận động phân tử; cơ thể học nghiên cứu sự thống nhất của cơ thể, gắn liền với cơ học, vật lý, hoá học.
Karl Marx (1818-1883) và F. Engel (1820-1895) đã phân loại khoa học tự nhiên dựa trên phép biện chứng duy vật và trên các hình thức vận động của vật chất, phù hợp với tính nhất quán bản chất bên trong của khách thể. Mối liên hệ chuyển hoá giữa các khoa học là sự phản ánh và phân tích những chuyển hoá, phát triển của các hình thức vận động của thế giới khách quan.
Nhận xét: Trong lịch sử phát triển khoa học, con người đã dần nhận thức và đã thực hiện sự phân loại khoa học. Tuy có rất nhiều cố gắng, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa tìm được cách phân loại hợp lý, triệt để và bao quát mọi lính vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học tư duy cùng những mối liên hệ hữu cơ giữa chúng. Đặc biệt khoa học xã hội và những khoa học liên quan đến con người bề trong, chưa được phát triển một cách tương xứng so với khoa học tự nhiên và các ngành khoa học nói chung.
Do sự phân loại khoa học, giới hạn (hạn chế) của khoa học dần dần được lộ rõ và bản chất của khoa học cũng được thể hiện mộtcách khách quan trong sự phát triển của chính nó. Đặt khoa học đúng vị trí, vai trò quan trọng như một hoạt động đặc biệt của con người trong thế giới và vũ trụ cho phép con người nhận thức được những quy luật nằm bên trong cảnh giới của khoa học. Mặt khác, những sự kiện nằm bên ngoài khoa học, đó là thế giới nội tâm của con người bao gồm: Tâm hồn (cảm xúc, ý chí, lý trí) và đặc biệt là tâm linh của con người không thể đạt tới bằng các phương pháp khoa học. Kinh Thánh đã chỉ rõ: “Vì người nào dù được cả thế giới mà mất linh hồn mình, người ấy được ích gì? Hay có ai lấy gì để đánh đổi được linh hồn mình không?” (Ma-thi-ơ 16:26)
Dựa trên các thành tựu phát triển khoa học, các loại hình nghiên cứu khoa học dần được thành hình rõ nét. Đó là nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai và nghiên cứu dự báo. Đay cũng chính là một căn cứ để phân loại khoa học theo phương pháp hình thành các khoa học hoặc theo phương pháp dựa trên đối tượng nghiên cứu khoa học.
Tiêu thức của phương pháp hình thành các khoa học dựa trên cơ sở lý thuyết của từng bộ môn khoa học bao gồm: Khoa học tiên nghiệm (a priori), bộ môn khoa học được hình thành trên cơ sở hệ thống tiên đề (Ví dụ: Lý thuyết hình học, lý thuyết tương đối).
Khoa học hậu nghiệm (a posteriori) hình thành từ thực nghiệm, quan sát (Ví dụ: Khoa học vật lý thực nghiệm, xã hội học)
Khoa học phân lập (differentiation) là các bộ môn khoa học hình thành trên cơ sở phân chia đối tượng theo các hướng hẹp hơn (Ví dụ: Khảo cổ học phân lập từ sử học, cơ học phân lập từ vật lý học)
Khoa học tích hợp (integration) là các bộ môn khoa học hình thành trên cơ sở hợp nhất hai hoặc nhiều bộ môn khoa học về cơ sở lý thuyết hoặc phương pháp luận (Ví dụ: Kinh tế chính trị học, hoá lý, hoá sinh, lý sinh, khoa học môi trường, toán kinh tế).
Phân loại khoa học theo đối tượng nghiên cứu khoa học là sắp xếp khoa học ừng với sự phát triển biện chứng của khách thể trong thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy. Nhà khoa học người Nga Kedrop đã đưa ra một tam giác tri thức bao gồm: Đỉnh A là khoa học tự nhiên; đỉnh B là khoa học xã hội; đỉnh C là khoa học triết học.
Trong tam giác đó là các ngành khoa học: Vật lý học, hoá học tương ứng với thế giới vô cơ và hữu cơ. Sinh học, tâm lý học tương ứng với con người … Khoa học xã hội tương ứng với các hoạt động xã hội và tư duy. Bên ngoài tam giác là toán học (phía bên phải cạnh AC) liên hệ với triết học và các ngành khoa học khác. Khoa học kỹ thuật nằm bên trái cạnh AB, liên hệ với các ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Một số ý kiến nhận xét và trao đổi
Bảng phân loại nói trên có các ưu điểm, đó là khái quát các khoa học theo dang tuyến tính hoá trên một “thế giới phẳng”. Cơ sở của bảng phân loại xuất phát từ mô hình hệ thống tri thức tương ừng với sự phát triển của khách thể, đã cho chúng ta một cái nhìn bao quát chung và những mối quan hệ của các ngành khoa học. Dựa trên bảng phân loại của Kedrop, Unesco đã đưa ra bảng phân loại các khoa học như một văn bản quy chuẩn, được nhiều người chấp nhận và áp dụng. Đó là 6 nhóm cơ bản:
·        Nhóm 1: khoa học tự nhiên, khoa học toán học, khoa học trừu tượng. Đây là nhóm khoa học chính xác.
·        Nhóm 2: khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đây là nhóm khoa học ừng dụng.
·        Nhóm 3: khoa học nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản. Đây là nhóm khoa học về môi trường.
·        Nhóm 4: Khoa học sức khoẻ (dịch tễ học, bệnh học). Đây là nhóm khoa học y-dược.
·        Nhóm 5: Khoa học xã hội và nhân văn (sử học, ngôn ngữ học…)
·        Nhóm 6: Khoa học triêt học bao gồm cả khoa học về tư duy như logic học, logic biện chứng.
Tuy nhiên chúng ta cũng chỉ ra những nhược điểm của bảng phân loại này. Đó là người sử dụng khó khăn trong việc xác định vị trí và vai trò của những ngành khoa học quan trọng và tương tác của nó với các ngành khoa học khác. Thí dụ: Toán học được sắp xếp theo dang “truyền thống”, tức là trong nhóm khoa học tự nhiên. Điều này dẫn đến sự hiểu lầm toán học là khoa học tự nhiên mà không thấy được đó là phương pháp luận chung cho mọi ngành khoa học.
Bách khoa từ điển, Moscow 1986 đã chỉ rõ: Toán học là khoa học nghiên cứu về các hình thức không gian và quan hệ định lượng của thế giới hiện thực. Như vậy đối tượng của toán học không phải là mọi vật thể tồn tại trong tự nhiên, cũng không phải là các đối tượng tự nhiên mà các đối tượng tự nhiên và hiện tượng tự nhiên chỉ là sự gợi ý cho các hình thức không gian và quan hệ định lượng để trừu xuất thành các yếu tố của toán học. Toán học là một khoa học diễn dịch không nhằm khảo sát các đối tượng cụ thể của hiện thực mà là những đối tượng có tính chất trừu tượng. Cái thấy được đến từ những cái không thấy được. Trong bảng Kedrop, toán học nằm ngoài vùng các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và triết học.
Thực chất không phải như vậy, vì toán học không phải là một khoa học đặt cạnh các khoa học khác mà nằm trong các khoa học. Thí dụ phương pháp logic hình thức trong suy luận, phương pháp mô hình hoá toán học trong các ngành khoa học, phương pháp mô phỏng … Toán học xâm nhập và làm chính xác hoá hầu hết các ngành khoa học, kể cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Ngành triết học được coi là khoa học độc lập. Tuy nhiên, theo quan niệm từ trước đến nay triết học vẫn được xếp vào khoa học xã hội. Đây cũng là một lầm lẫn vì thực ra, xét về mặt bản chất, triết học là khoa học về các quy luật phổ quát của thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy; là phương pháp chung để nhận thức các khoa học.
Kết luận
Như trên đã trình bày, đối tượng của khoa học là những sự vật hiện tượng cụ thể, hoặc trừu tượng trong một lĩnh vực nhất định. Khoa học tự nhiên khảo sát các hiện tượng của thế giới vật thể (Vật lý, hoá học, sinh học). Khoa học xã hội nghiên cứu các sự kiện nhân văn có tình chất xã hội hoặc thuộc về các sinh hoạt bề trong của con người (tâm hồn, tâm linh của con người). Chủ đích của các ngành khoa học là tìm ra những quy luật, định luật của các sự kiện nếu trên và càng ngày khoa học càng đi sâu vào chuyên môn hẹp và trở nên phân tán.
Như vậy đối tượng khoa học phải được quan sát, thí nghiệm, kiểm chứng bằng các phương pháp khoa học, nhưng vẫn bởi chủ thể là con người. Khoa học vừa có tình khách quan, vừa có tính chủ quan. Tính chính xác và chân lý của khoa học có tính chất tương đối bởi sự hạn chế của chủ thể, cơ chế và định đề cũng như mục đích của khoa học. Mục đích khoa học phụ thuộc vào ý chí của con người và tầm nhận thức của mỗi thời đại. Khoa học chỉ có thể cố gắng trả lời cho câu hỏi “như thế nào?”, nhưng câu hỏi “tại sao?” và ý nghĩa của các hiện tượng trên thế giới này thì lại thuộc về triết học.
Triết học, nhất là phần siêu hình học, cũng mang tình trừu tượng vượt trên kinh nghiệm cụ thể và nói chung không thể kiểm chứng. Triết học có tính bao quát, suy tư về tình trạng tổng thể và cố gắng tìm hiểu các nguyên nhân sâu xa, các nguyên lý phổ quát và ý nghĩa tối hậu của mọi sự. Trong sơ đồ Kedrop mô tả một nguyên lý hơn là diễn tả một thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học cũng như mối tương tác giữa triết học, toán học, khoa họcxã hội. Xin được nêu một thí dụ minh hoạ qua việc khảo sát con người.
Sinh vật học nghiên cứu cấu tạo và cách vận hành cơ thể. Tâm lý học tìm cách xác định các quy luật hoạt động của tâm thần. Y học nghiên cứu về bệnh tật, các phương pháp chữa trị và đề phòng. Toán học mô phỏng hoạt động của bộ não để xây dựng mô hình trí tuệ nhân tạo. Triết học tìm cách lý giải các vấn đề lien quan đến bả tính, khả năng, vị trí của con người trong thế giới và trong vũ trụ. Triết học cũng đề cập đến thân phận và vận mệnh của con người. Ở đây cần phân biệt hai vấn đề và phương cách giải quyết.
Vấn đề thứ nhất liên quan đến nhân sinh của con người. Vấn đề thứ hai thuộc về cứu cánh và ý nghiã của đời sống con người. Khoa học kinh tế, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội giải quyết vấn đề thứ nhất, đó là tạo ra những điều kiện căn bản về đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Tuy nhiên đó chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ.
Vấn đề thứ hai có tầm khái quát và mang ý nghĩa sâu sắc các câu hỏi như: Tại sao có đau khổ và sự chết? Sau khi chết những điều gì sẽ xảy ra đối với con người? Lịch sử có ý nghĩa gì? Nhân loại sẽ đi về đâu? Triết học cố gắng trả lời, nhưng không thể giải quyết dứt điểm. “Triết học là sự tra vấn không cùng, triết thuyết nào cũng muốn chấm dứt vấn đề, nhưng chưa có triết thuyết nào chấm dứt triết học”, nhà triết học nổi tiếng người Đức G. Gusdorf đã tuyên bố như vậy.ấn đề triết học đặt ra không thể giải quyết được bằng triết học, vì nó vượt quá khả năng của triết học; đó chính là một nghịch lý.
Theo một phương diện nào đó, triết học cũng giống như một số ngành nghệ thuật, khoa học xã hội, không tiến bộ đồng đều như khoa học. Trong khoa học kỹ thuật, có những tiến bộ phát triển rõ rệt: Thế hệ sau đi xa hơn thế hệ trước. Trong triết học và nghệ thuật thì không hẳn là như vậy: Triết gia ở thế kỷ XX không đương nhiên sâu sắc hơn Aristote hay Descates. Âm nhạc, hội hoạ ở thế kỷ thứ XX không đương nhiên được đánh giá luôn cao như thời kỳ phục hưng.
Điều này sáng tỏ một chân lý: Những gì thuộc về giá trị tinh thần và tâm linh phải có cách tiêp cận khác nằm bên ngoài khoa học. Khoa học tìm kiếm các quy luật phục vụ cho con người, nhưng nhu cầu bên trong của chính con người lại có những quy luật vận động khác, đó là quy luật thuộc linh, quy luật siêu nhiên, cần phải được nghiên cứu bằng phương cách khác.
Đó là chân lý được mạc khải tuyệt đối trong Kinh Thánh. Đặc biệt chân lý cứu rỗi loài người được chính Chúa Cứu Thế Giê-xu thực hiện qua sự hy sinh của Ngài trên thập tự giá làm sang tỏ điều Ngài phán dạy “Ta là Con Đường, Chân Lý và Nguồn Sống” (Giăng 14:6a).
Cũng cần nhấn mạnh ý nghĩa của bài học về sự phát triển khoa học trong thời kỳ phục hưng trùng với thời kỳ hình thành Đạo Tin Lành tại Chấu Âu. Khoa học ngày nay chỉ có thể được phát triển mạnh mẽ và toàn diện khi hướng về cội nguồn, đó là chân lý đến từ Đức Chúa Trời, nơi giải quyết trọn vẹn song đề giữa cơ chế và mục đích, giữa phương tiện và khả năng. Con người cần tìm kiếm chân lý cứu rỗi trước hết và sau đó mọi sự khôn sáng, phước hạnh sẽ được ban cho. “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa, sẽ mở cho” (Ma-thi-ơ 7:7). Amen.

Tín Trung



Tài liệu tham khảo:
1.      Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước – NXB Tôn Giáo 2005
2.      Tri thức tôn giáo qua các vấn nạn và giải đáp- NXB Tôn Giáo 2005
3.      Max Planck – người khai sang lý thuyết lượng tử- NXB Tri thức – 2009
4.      Thông Công – Chuyên mục Niềm tin và Khoa Học.
5.      Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước – NXB Tôn Giáo 2005
6.      Tri thức tôn giáo qua các vấn nạn và giải đáp- NXB Tôn Giáo 2005
7.      Max Planck – người khai sang lý thuyết lượng tử- NXB Tri thức – 2009
8.      Thông Công – Chuyên mục Niềm tin và Khoa Học.
9.      Bách khoa từ điển – NXB Mir 1986
Từ điển triết học –NXB Mir -1985
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...