Thursday, November 7, 2013

LÁ CỜ HỒNG THẬP TỰ



  Có một ấn tượng ghi khắc trong tâm hồn và trí nhớ tôi khi tôi còn là thiếu niên mà vẫn chưa nhạt nhoà sau rất nhiều năm tháng. Đó là tiếng còi hụ và vận tốc vô cùng nhanh chóng của xe cứu thương Hồng thập tự, đang giành đường để chạy nhanh tải bệnh nhân đang gặp tình trạng nguy kịch. Lúc ấy bọn học sinh chúng tôi phải vội vàng dừng xe đạp lại và nép vào lề đường cho chiếc xe đó lao vút qua. Người ta bảo với tôi rằng, nếu xe Hồng thập tự xổ hai cờ, nó còn chạy nhanh hơn nữa. Ngày nay, trong đời sống đô thị, tôi vẫn còn nghe tiếng còi hụ đó, và thấy bóng dáng của chiếc xe đó.

   Cờ Hồng thập tự có nền trắng và hình chữ thập màu đỏ ở giữa. Đó là huy hiệu của Hội cứu thương Hồng thập tự. Các nước Hồi giáo không chấp nhận hình chữ thập đỏ nên họ đổi thành huy hiệu “trăng lưỡi liềm đỏ”.
  Một nhà báo bình luận: “Chữ thập là một hình có hai đường hoặc hai thanh vuông góc với nhau, chia một hoặc cả hai làm hai phần bằng nhau. Các đường thường chạy theo chiều dọc hoặc chiều ngang; nếu chúng nằm xiên, chúng được gọi là saltire (dấu chéo, dấu X), mặc dù các nhánh của saltire không nhất thiết phải vuông góc với nhau.
Chữ thập là một trong những biểu tượng cổ trong lịch sử loài người, được nhiều nền tôn giáo sử dụng, như cây thánh giá của Thiên Chúa giáo. Chữ thập thường đại diện cho sự phân chia thế giới thành bốn nguyên tố (Chevalier, 1997) (hoặc 4 hướng, 4 phương trong địa lý), hoặc cho sự thống nhất giữa các vị thần, đại diện bởi đường thẳng, và thế giới, đại diện bởi đường ngang (Koch, 1955).”

Có một nhà báo khác nữa lại viết, “Phong trào Chữ thập đỏ – Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế là tổ chức theo nhân đạo chủ nghĩa lớn nhất trên thế giới, thường được gọi là Hội Chữ thập đỏ hay Hội Hồng thập tự, theo biểu trưng đầu tiên của họ. Nó gồm có Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế (ICRC) ở Genève, Hiệp hội Chữ thập đỏ – Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế (IFRC), và 183 hội Chữ thập đỏ hoặc Trăng lưỡi liềm đỏ quốc gia riêng mà hiện nay được là thành viên chính thức của IFRC và được ICRC công nhận. Tất cả những tổ chức này không phụ thuộc nhau theo pháp lý, nhưng có liên quan với nhau do những căn bản, mục đích, biểu trưng, quy chế, và cơ quan giống nhau. Phong trào này tự giác và phi chính phủ. Mục đích đã được tuyên bố là để bảo vệ sự sống và sức khỏe con người, để bảo đảm là con người được tôn trọng, và để tránh và giảm bớt khổ sở, họ không phân biệt theo quốc tịch, dân tộc, tôn giáo hay tín ngưỡng, giai cấp, hoặc quan điểm chính trị”.

Sau đây là bản ghi chép lịch sử thành lập Hội Hồng thập tự :

« Solferino là một thị xã của Lombardie, tỉnh Mantoue, miền Nam hồ Garde, Italia. Ngày 24 tháng 6 năm 1859 trong trận chiến với đơn vị Ý, quân đội Pháp-Sardaigne (đảo miền Nam Ý) chạm trán với quân đội Áo quanh thị trấn Solferino tạo miền Bắc nước Ý.

Ngày hôm đó, một công dân Genève, Henri Dunant, tìm cách gặp vua Napoléon III để hỏi những  mệnh lệnh riêng tư. Đêm đến, Dunant tới làng  bên cạnh, Castiglione, nơi đó 9000 thương binh đang trốn. Ngày đêm tại Chiesa Maggiore chất hàng 5000 người bị thương, Dunant  và những người đàn  bà  nơi  đó cho họ uống nước, lau rửa cho họ và băng bó vết thương, cho  họ thuốc  lá, nước tisane và trái cây. Dunant  nán lại ở đó cho tới ngày 27 tháng  6 rồi lên đường và trở về Genève ngày 11 tháng  7. Lúc bấy giờ ông rất thiếu thốn về tài chánh, nhưng ông  không quên những gì ông đã thấy.

Năm 1862 ông cho  in tác phẩm Một Kỷ niệm về Solferino (Un Souvenir de Solferino) trong đó ông  mô tả chiến tranh rồi những người bị thương ở Chiesa Maggiore, rồi kết luận bằng  một câu hỏi:
Có thể nào có được một phương cách để, trong thời bình thì thành lập những cơ quan cấp cứu mà chủ đích là săn sóc những người bị thương, và  trong thời chiến thì những người tình nguyện nhiệt tình, tận tụy và thật rành nghề cho một công tác tương tự? 

Từ câu hỏi này dẫn đến sự thành lập hội Hồng Thập Tự. Ông còn  hỏi các giới có thẩm quyền của các quân đội có quốc tịch khác nhau trên thế giới xem họ có thể trình bày nguyên tắc quốc tế, có quy ước và thiêng  liêng, nguyên tắc mà một khi đã được chấp thuận và được thừa nhận, sẽ được coi là căn bản cho các cơ quan cứu cấp những  người bị thương trong  các nước  khác  nhau của Âu Châu? Câu hỏi thứ hai này từ nguồn gốc các thỏa hiệp Genève.

Tác phẩm của Henri Dunant mang  lại thành công  lớn và được dịch sang tất cả mọi thứ tiếng của Âu Châu và được giới thẩm quyền có ảnh hưỏng nhất thời bấy giờ đọc. Trong số những người đó có Gustave Moynier, luật sư người Genève, chủ tịch một cơ quan địa phương về từ thiện, Cơ quan xã hội Genève (La Société genevoise d' Utilité publique, Geneva Society for Public Welfare ). Ngày 9 tháng 2 năm 1863 ông giới thiệu những  kết luận của tác phẩm Henri Dunant cho cơ quan ông. Cơ quan này mở ra một ban gồm 5 thành viên để nghiên cứu các đề nghị của Dunant.

Ủy ban gồm năm thành viên Moynier, Dunant, tướng Dufour và hai bác sĩ  Louis Appia và Théodore Maunoir, là nguồn gốc của Ủy ban Quốc tế Chữ Thập đỏ Comité international de la Croix-Rouge (CICR). Ủy ban  này họp lần đầu ngày 17 tháng  2 năm 1863. Ngay lập tức  ủy ban nhận xét rằng những  người tình nguyện do Henri Dunant tưởng tượng sẽ chỉ hành động có hiệu quả, không bị các sĩ quan và quân lính từ chối, khi họ được mang dấu hiệu đặc biệt để phân biệt họ với dân thường và họ phải được bảo vệ. Đó là ý niệm về sự trung lập hóa của cơ quan vệ sinh và các y sĩ tình nguyện.

Ngày 25 tháng  8 năm 1863, Ủy ban Quốc tế quyết định hội họp tại Genève dưới trách nhiệm của họ, một Hội nghị quốc tế để nghiên cứu các phương tiện để bù vào những thiếu thốn của ban Vệ sinh trong quân đội. Ủy ban gởi giấy mời cho tất cả các cơ quan chính quyền các  nước  Âu châu và tới nhiều nhân vật. Ủy ban gom tụ 36 người, trong số đó có 14 đại diện các  nước, 6 đại diện cho các tổ chức và 7 người với danh hiệu tư nhân.  Với tính chất ghép giữa dân sự và quân sự, tổ chức đi sâu vô các hội nghị quốc tế của  Hồng Thập Tự (La Croix Rouge, The Red Cross) và Trăng Lưỡi liềm Đỏ (Le Croissant Rouge, The Red Crescent ). Ngày nay,  phái đoàn các cơ quan quốc tế của Croix Rouge và Croissant Rouge, của các nước có chân trong Hiệp ước Genève và các quan sát viên (thường là các cơ quan từ thiện) cùng tham dự.

Hội nghị năm 1863 được Ủy ban quốc tế chuẩn bị  thảo luận "dự kiến Concordat" và chấm dứt sau khi soạn ra 10 nghị quyết làm nền tảng cho các cơ quan cấp cứu thương binh: là những cơ quan Chữ Thập Đỏ trong tương  lai và sau nữa là Trăng lưỡi liềm Đỏ.

Nghị quyết 10 ủy quyền cho Ủy ban quốc tế trao đổi tin tức giữa các Ủy ban của các  nước khác nhau.
Trong những  năm tiếp theo, các Cơ quan Cứu trợ thành lập: nước Bỉ, Phổ, Đan Mạch, Pháp, Ý, Tây Ban Nha..

Ủy ban quốc tế chuẩn bị giai đoạn kế tiếp cho một cuộc hội nghị ngoại giao. Hội nghị này phải biến các nghị quyết năm 1863 thành các luật theo qui ước, có uy quyền của luật pháp cho những nước đã ký kết.
Nhưng ngày 1 tháng 2 năm 1964, các  quân đội Áo-Phổ xâm chiếm Danemark. Đó là bước đầu của cuộc chiến. Ủy ban quốc  tế quyết dịnh gởi các đại diện tới tận nơi để săn sóc  những người bị thương và nghiên cứu có thể thi hành những kết luận của Hội nghị năm 1863.
Ngày 6 tháng 6 năm 1864 chính quyền Thụy Sĩ (đã chấp nhận tổ chức hội nghị ngoại giao) gởi thư mời tất cả các nước Âu Châu, Hoa Kỳ, Brésil và Mexique.

Hội nghị kéo dài từ 8 tới 28 tháng 8 năm 1864 dưới sự hiện diện của các đại diện của 16 nước. Hôi nghị thông qua dự thảo theo qui ước do Ủy ban quốc tế soạn ra. Ngày 22 tháng 8 năm 1864 hội nghị ký Qui ước cải thiện số phận các thương binh tại chiến trường, nghĩa là cấp cứu những người bị thương. Sau đó Hội Hồng Thập Tự  thành lập một cơ quan, có Hiến Chương về Tù Binh phải đối xử nhân đạo với các Tù Binh khi họ bị bắt tại chiến trường. Quyền từ thiện tân thời quốc tế được sinh ra.

Để vinh danh Jean Henri Dunant, người sáng lập ra hội, Âu Châu đồng ý chọn cờ cho Hội này là nền trắng Chữ Thập Đỏ (vì Dunant quốc tịch Thụy Sĩ,  mà nước Thuỵ sĩ có cờ màu đỏ và chữ thập trắng).

Cuối năm đó, Quy ước được  nhiều nước chấp nhận: Pháp, Thụy Sĩ, Bỉ, Hòa Lan, Ý, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch ».

Nên Hội hồng thập tự là để bày tỏ tình thuơng trong chiến tranh, hay trong hoạn nạn, không phân biệt bạn hay thù. Nhưng tại sao họ lấy hình chữ thập màu đỏ để làm tiêu biểu cho Hội ? Bạn có suy nghĩ về điều đó không ?

  Trên đây là lịch sử thành lập Hội hồng thập tự quốc tế. Tôi còn có ấn tượng mạnh là tại sao nhiều nước trên trên thế giới, nhất là các nước Âu Tây, đã đặt hình chữ thập vào quốc kỳ của họ. Có chừng 35 quốc gia, đó là: Australia, Anh Quốc, Phần Lan, Tân Tây Lan, Na-uy, Thuỵ sĩ, Hi-lạp, Thuỵ Điển, Đan mạch, Tavalu, Fiji, Iceland, Tonga, Georgie, Dominican, Dominica. Đó là các nuớc lớn, ngoài ra còn có các nuớc là các đảo như Bermuda, Cocos, Anguilla,Pitcairm, Heard and Mcdonald Islands, Niue, St. Helena..v.v.. Tổng cộng chừng 35 nước có quốc kỳ in hình chữ thập. Trong quốc kỳ của 35 nước nầy đều có hình chữ thập.

  Bạn thân mến,
Tại sao hình chữ thập đã có ảnh hưởng quá mạnh đến đời sống văn hóa nhiều nước, và ảnh huởng đến giới y khoa nhiều như vậy ? Tại sao có hình chữ thập ở khắp mọi bệnh viện, nhà thờ và một số quốc kỳ như vậy ?

   Theo lịch sử cổ đại ghi lại, đế quốc Ba-Tư (Iran) đã sử dụng cây mộc hình để treo cổ hành quyết tội nhân. Đế quốc La-ma mô phỏng cách hành quyết nầy, và đổi mộc hình thành giá gỗ hình chữ thập. Người ta gọi đó là thập tự giá, hay thập ác.

   Thập tự giá là cái giá gỗ hình chữ thập, dùng để treo tù nhân lên đó. Trước tiên họ chôn một cây trụ đứng. Họ bắt nạn nhân nằm căng hai tay trên thanh ngang. Sau khi đóng đinh hai bàn tay nạn nhân vào hai đầu thanh ngang, họ kéo thanh ngang luôn với nạn nhân lên để móc vào đầu cây trụ đứng. Họ dùng đinh to đóng cả hai bàn chân nạn nhân vào chân trụ đứng. Họ lấy dây thừng cột bụng nạn nhân vào thân trụ đứng. Nạn nhân bị treo cách đau đớn và khát nước như vậy cho đến khi tắt thở. Thật là một cách hành quyết dã man và tàn nhẫn.

Thánh Kinh ghi chép lại sự việc Đấng Cơ Đốc Jêsus đã bị hành quyết y như vậy vào khoảng năm 30 sau Công Nguyên tại ngoại ô thủ đô Giê-ru-sa-lem, xứ Do- thái. Tổng Đốc chính quyền La mã đương thời, là người có quyền uy trong vụ án của Chúa. Kinh thánh chép về ông ta “ khi người nói vậy rồi thì lại đi ra, nói cùng người Do-thái rằng: “Ta chẳng thấy người có tội gì cả”. Đấng Cơ-Đốc vô tội nhưng ông Tổng đốc phải ra lệnh hành quyết Ngài để vừa lòng quần chúng Do-thái căm ghét Ngài đời hỏi. Kinh Thánh tuyên bố cái chết trên thập tự giá của Đấng Cơ Đốc là để bày tỏ tình thương của Đức Chúa Trời, để đền tội cứu chuộc toàn thể nhân loại trải mọi thời đại. Kinh Thánh chép, “Chúng đã treo Ngài trên cây gỗ mà giết đi. Nhưng ngày thứ ba Đức Chúa Trời khiến Đấng ấy sống lại,… Hết thảy các tiên tri đều làm chứng cho Ngài rằng hễ ai tin Ngài thì nhờ Danh Ngài mà nhận được sự tha tội” (Thánh Kinh—Công vụ 10:40-41,43).

 Các bạn ơi,
Mỗi lần bạn nhìn thấy quốc kỳ của nước nào có hình thập tự, hay cờ xe Hồng thập tự, dấu hiệu chữ thập đỏ nơi các bệnh viện, nhà thờ, bạn phải nhớ rằng dấu hiệu đó nhắc nhở chúng ta về tình thương yêu của Đấng Cơ Đốc. Ngài là Đấng Cứu Thế đã giáng trần để chết thế cho bạn trên thập tự giá. Mong bạn đến với Ngài..”—Vì “chính Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ, hầu cho chúng ta đã chết đối với tội lỗi, thì được sống đối với sự công nghĩa. Cũng nhơn lằn đòn của Ngài mà anh em đã được chữa lành” (Thánh kinh, 1 Phi-e-rơ 2:24).

Châu Quân 15-10-2013

Trích nguồn : http://maxreading.com/sach-hay/lich-su-cac-phat-minh/hoi-hong-thap-tu-2552.html




Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...